Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án Tranh chấp quyền sử dụng đất tại huyện Hòa Vang, Đà Nẵng
Nội dung vụ án:
Nguyên đơn ông Nguyễn Văn Quý, bà Lê Thị Ván trình bày: Cụ Trương Thị Nha (mẹ của ông Quý) nhận chuyển nhượng 715m2, tại tổ 2, thôn Yến Nê 1, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nằng của vợ chồng ông Nguyễn Viết Trung và bà Nguyễn Thị Tinh, vói giá 32.000.000 đồng theo “Đơn xin chuyến nhượng đất” ngày 12-11-2002, Cụ Nha đã trả đủ tiền và ông Trung đã giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Cụ Nha để làm thủ tục sang tên cho ông.
Sau đó, ông Trung và ông ký Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất ngày 18/11/2002. Ngày 20/3/2003, hộ gia đình ông được ủỵ ban nhân dân huyện Hòa Vang, thành phố Đả Nang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, diện tích 715m2, thửa số 584, tờ bản đồ 12, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nằng. Thực tế, vợ chồng ông chưa quản lý, sử dụng diện tích đất nêu trên. Do đó, vợ chồng ông yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Trung giao đất cho vợ chồng ông theo đúng Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/3/2003.
Bị đơn bà Nguyên Thị Tỉnh và người đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ to tụng của nguyên đơn thong nhất trình bày: Mẹ con Cụ Nha cỏ nhận chuyển nhượng một phần đất của vợ chồng ông Trung, bà Tỉnh theo “Đơn xin chuyển nhượng đất” ngày 12/11/2002. Cụ Nha đã giao đủ tiền, vợ chồng ông Trung, bà Tỉnh đã giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho Cụ Nha để làm giấy tờ đất. Quá trình thực hiện, cán bộ địa chính xã Hòa Tiến đo đạc
lại đất và đưa Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất theo mẫu quy định để vợ chồng bà Tỉnh và ông Quý ký. Đen năm 2015, vợ chồng bà Tỉnh mó’i biết diện tích đất 715m2 mà ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang cấp cho hộ gia đình ông Quý là cấp chồng lên thửa đất số 60 mà vợ chồng bà Tỉnh có nhà ở, không đúng vói thửa đất liền kề mà hai bên thỏa thuận chuyển nhượng ngày 12/11/2002. Vợ chồng bà Tỉnh đồng ý giao thửa đất 107 (số mói là số 5) liền kề thửa đất sốóo theo thỏa thuận tại “Đơn xin chuyển nhượng đất” ngày 12/11/2002 và đề nghị* Tòa« án hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 20/3/2003 của hộ ông Quý.
Tại Công văn số 1925/UBND-TNMT ngày 31/10/2018 của ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang, thành pho Đà Nang xác định: Hộ ông Trung không kê khai đăng ký đối với thửa đất số 107, tờ bản đồ số 12 tại thôn Yến Nê 1, xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nằng (thửa đất liền kề vói thửa số 60 có nhà ở của hộ ông Trung) nên không thể cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trung đối với thửa đất nêu trên.
Quá trình giải quyết vụ án:
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2018/DS-ST ngày 11/6/2018, Tòa án nhân dân thành phố Đà Nằng quyết định:
1. Công nhận và giao cho ông Nguyễn Văn Quý và bà Lê Thị Vân quyền sử dụng đất diện tích 708,40m2 tại địa chỉ tổ 02, thôn Yến Nê 1, xã Hòa Tiến, huyện Hỏa Vang, thành phô Đà Năng; có so thửa 5 (so cữ 107), tờ bản do so 122 (so cữ 12). Có sơ đồ quyền sử dụng đất kèm theo bản án này.
Ông Nguyễn Văn Quý và bà Lê Thị Ván có quyền và nghĩa vụ hên hệ với các cơ quan có thâm quyển đế được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đat theo quy định của pháp luật.
2. Tuyên bố Hợp đồng chuyến nhưọng quyển sử dụng đất, lập ngày 18 tháng 11 năm 2007, giữa ông Nguyên Viết Trung và bà Nguyễn Thị Tỉnh với ông Nguyễn Văn Quý về chuyển nhượng diện tích đât 715m2 tại xã Hỏa Tiến, huyện Hòa Vang, thành pho Đà Nang là vô hiệu.
3. Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, do ủy ban nhân dân huyện Hòa Vang, thành pho Đà Năng câp cho hộ ông Nguyễn Văn Quý vào ngày 20 tháng 3 năm 2003 đối với diện tích đất 715m2 tại xã Hỏa Tiến, huyện Hòa Vang, thành phố Đà Nang.
Bà Nguyên Thị Tỉnh và những người kế thừa quyền, nghĩa vụ tổ tụng của Ông Nguyên Viêt Trung có quyền và nghĩa vụ liên hệ với các cơ quan có tham quyền để đựợc xác lập quyền sử dụng đất và cap giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật ”.
Ngoài ra, Tòa án cấp sơ thẩm còn quyết định về án phí; chi phí giám định; chi phí xem xét thẩm định, định giá tài sản và quyền kháng cáo.
Ngày 25/6/2018, ông Nguyễn Văn Quý và bà Lê Thị Vân kháng cáo đối với Bản án dân sự sơ thâm nêu trên. Ngày 20/11/2018, ông Quý, bà Vân có đơn xin rút lại toàn bộ nội dung kháng cáo.
Tại Quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm số 182/2018/QĐ-PT ngày 27/11/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang quyết định:
“Đình chỉ xét xử phúc thấm vụ án dân sự thụ lý so 178/2018/TLPT-DS ngày 02/8/2018 về việc “Tranh chấp về yêu cầu giao quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giãy chứng nhận quyên sử dụng đât; Bản án dân sự sơ thâm sô 34/2018/DS-ST ngày ỉ 1/6/2018 của Tỏa án nhân dân thành pho Đà Nang có hiệu lực thi hành kể từ ngày ra quyêt định này ”.
Ngày 24/3/2020, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao kháng nghị giám đốc thẩm số 17/2020/KN-DS, đề nghị ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nằng, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2018/DS-ST ngày 11/6/2018 của Tòa án nhân dân thành phố Đà Nang đế xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, theo đúng quy định của pháp luật.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 29/2020/DS-GĐT ngày 10/6/2020, của ủy ban thẩm phán Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang quyết định:
- Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 34/2018/DS-ST ngày 11/6/2018 của Tỏa án nhân dán thành phô Đà Nang đã giải quyết vụ án “Tranh chấp về yêu cầu giao quyển sử dụng đất; và yêu cẩu hủy giấy chứng nhận quyền sừ dụng đất” giữa nguyên don ông Nguyễn Văn Quý và bà Lê Thị Vân với bị đon ông Nguyễn Viết Trung, bà Nguyên Thị Tỉnh và nhũng người có quyền ỉợị và nghĩa vụ liên quan;
- Giao hồ sơ vụ án cho Tỏa án nhân dân thành pho Đà Nang để xét xử ỉại theo thủ tục sơ thâm, đúng quy định của pháp luật”
Tại “Đon xin chuyển nhượng đất” Ngày 12/11/2002, thể hiện vợ chồng ông Trung, bà Tỉnh chuyến nhượng cho mẹ của ông Nguyễn Vân Quý là cụ Trương Thị Nha và bà Nguyễn Thị Bính (con bà Nha) thửa đất có kích thước: “Bề ngang của khu đất dài 23m ngay cây mít phía nhà ông Tăn, phía trước từ góc rào nhà Ỏng Chất đến cây sầu Đâu thẳng đến bụi tre bờ hồ cá, chiều sâu hết khu đất trong vườn”; đến ngày 18/11/2002, vợ chồng ông Trung, bà Tỉnh tiếp tục ký vói ông Quý “Hợp đồng chuyến nhượng quyền sử dụng đất” theo mẫu quy định. Sau đó các bên làm thủ tục cấp giấy chúng nhận quyền sử dụng đất. Tuy nhiên, khi đo vê sơ đồ vị trí khu đất chuyến nhượng ngày 16/12/2002, cán bộ địa chính lại xác định thủa đất chuyển nhượng có diện tích 715m2 nằm trong thửa đất số 60, tờ bản đồ số 12, diện tích 852 m2, trên thửa đất này có nhà ở của hộ ông Trung, đã được UBND huyện Hòa Vang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số vào sô 00869 QSDĐ ngày 09/12/1994 cấp cho hộ ông Nguyễn Viết Trung. Trên cơ sở họp đồng chuyển nhượng nêu trên, ngày 20/3/2003, UBND huyện Hòa Vang cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số 03410 QSDĐ/3700/QĐ-UB cho hộ ông Nguyễn Văn Quý tại thửa đất số 584, tờ bản đồ số 12 với diện tích 715m2 (gồm 400m2 đất ở và 315 đất vườn).
Quá trình giải quyết vụ án, tại Biên bản xem xét thẩm định tại chỗ ngày 29/12/2016 và phiên tòa sơ thẩm ngày 11/6/2018, các bên đương sự thừa nhận mảnh đất thỏa thuận chuyển nhượng theo như “Đơn xin thỏa thuận chuyến nhượng đất” ngày 12/11/2002 là thửa đất số 107 (số mới là 05) liền kề thửa đất số 60 (nay là thửa 584), trên đất có nhà ở của vợ chong ông Trung chứ không phải là thửa đất số 60 mà UBND huyện Hòa Vang đã cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Quý ngày 20/3/2003.
Như vậy, có đủ căn cứ đe xác định diện tích đất mà vợ chồng ông Trung chuyển nhượng cho ông Quý là mảnh đất cỏ số thửa 107, tò’ bản đồ số 12, chứ không phải mảnh đất có số thửa 60, tờ bản đồ số 12; quá trình thực hiện thủ tục chuyển quyền sử dụng đất cỏ sự nhầm lẫn về vị trí thửa đất chuyển nhượng, nên họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên là vô hiệu.
Tại Công văn số 210/UBND ngày 05/12/2017, UBND xã Hòa Tiến, huyện Hòa Vang xác định: Thửa đất số 107 trước đây do HTX Nông nghiệp 1 Hòa Tiến quản lý, nay do ủy ban nhân dân xã Hòa Tiến quản lý, gia đình ông Trung không quản lý, sử dụng thửa đất này. Đồng thời, tại Công văn số 1925/UBND-TNMT ngày 31/10/2018 của UBND huyện Hòa Vang xác định hộ ông Trung không kê khai đăng ký nên không the cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ ông Trung đối với thửa đất này. Thực tế, gia đình ông Trung cũng không có một trong các loại giấy tờ được quy định tại Điều 50 Luật Đất đai năm 2003 (nay là Điều 100 Luật Đất đai năm 2013); do đó, hộ ông Trung không phải là chủ sử dụng họp pháp thửa đất số 107.
Tòa án cấp sơ thẩm tuyên bố Họp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất ngày 18/11/2002 giữa vợ chồng ông Nguyễn Viết Trung và ông Nguyễn Văn Quý là vô hiệu và hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mà UBND huyện Hòa Vang đã câp cho hộ ông Nguyễn Vãn Quý ngày 20/3/2003 là có căn cứ theo quy định tại Điêu 141 BLDS năm 1995 (nay là Điều 126 và Điều 407 BLDS năm 2015).
Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm lại căn cứ vào sự thỏa thuận trái pháp luật của hai bên về chuyển nhượng thửa đất số 107 (do UBND xã Hòa Tiến quản lý) để công nhận vợ chông ông Quý được quyền sử dụng 708,4m2 (đã trừ 20,6m2 đất mộ) tại thửa đất sổ 5 (sô củ là 107) là không đúng quy định tại khoản 2 Điều 5 của BLTTDS 2015, do vi phạm điều cấm cùa luật được quy định tại khoản 4 Điều 3 BLDS năm 2015.