Nội dung vụ án
Nguyên đơn là Công ty Dược phẩm A, chủ sở hữu Bằng độc quyền sáng chế được bảo hộ tại Việt Nam đối với hai sáng chế gồm:
Sáng chế “Hợp chất Beta-Mino Tetrahydro (1,2-4) Pyrazin và Tetrahydrotriazolo (4,3-4) Pyrazin để sử dụng làm chất ức chế Dipeptidiyl Peptidaza, dược phẩm chứa chúng và ứng dụng của chúng”.
Sáng chế “Muối Axit Phosphoric của chất ức chế Dipeptidiyl Peptidaza-IV, quy trình điều chế dược phẩm chứa chúng và ứng dụng của chúng”.
Trong khi đó, bị đơn là Công ty Dược phẩm B đã và đang nhập khẩu, lưu trữ và phân phối tại Việt Nam các sản phẩm thuốc “GLUSTA 100mg” và “GLUSTA 50mg”.
Theo Kết luận giám định số SC 111-15 YC/KLGĐ và SC 219-19 YC/KLGĐ của Viện Khoa học Sở hữu trí tuệ (do nguyên đơn trưng cầu trước khi khởi kiện), cả hai thuốc GLUSTA 100mg và GLUSTA 50mg đều chứa hoạt chất Sitagliptin phosphat monohydrat, có cùng mục đích sử dụng với các sáng chế đang được bảo hộ theo Bằng độc quyền sáng chế số 8790 và số 9045.
Từ đó, nguyên đơn khởi kiện yêu cầu bị đơn:
Chấm dứt hành vi xâm phạm sáng chế.
Bồi thường thiệt hại do hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ gây ra.
Quá trình giải quyết
Bản án sơ thẩm số 125/2019/KDTM-ST ngày 15/9/2019 của TAND Thành phố H tuyên không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bản án phúc thẩm số 52/2020/KDTM-PT ngày 30/7/2020 của TAND cấp cao tại Thành phố H đã tuyên hủy bản án sơ thẩm để xét xử lại.
Các vấn đề cần rút kinh nghiệm
1. Về nội dung giải quyết
Kết luận giám định số SC 111-15 YC/KLGĐ và SC 219-19 YC/KLGĐ do cơ quan giám định có thẩm quyền ban hành. Bị đơn không phản đối, không yêu cầu giám định lại. Vì vậy, đây là tình tiết không phải chứng minh theo khoản 2 Điều 92 Bộ luật Tố tụng dân sự 2015.
Do đó, có cơ sở để chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Tòa án sơ thẩm bác yêu cầu là không đúng quy định.
2. Về tố tụng
Tại phiên tòa sơ thẩm, bị đơn đề nghị đưa Công ty C (đơn vị ký hợp đồng phân phối sản phẩm với bị đơn) tham gia tố tụng với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. Tuy nhiên, Tòa sơ thẩm không chấp nhận với lý do nguyên đơn chỉ khởi kiện Công ty B.
Cách giải quyết này vi phạm Điều 68 BLTTDS 2015 vì đã bỏ sót người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong vụ án.
3. Về thi hành án
Trong các vụ tranh chấp SHTT, nguyên đơn thường yêu cầu:
Buộc bị đơn chấm dứt hành vi vi phạm.
Thu hồi, tiêu hủy sản phẩm vi phạm.
Bồi thường thiệt hại.
Tuy nhiên, thực tế nhiều sản phẩm vi phạm đã được lưu hành và tiêu thụ rộng rãi, không thể thu hồi triệt để. Việc Tòa sơ thẩm tuyên buộc thu hồi và tiêu hủy toàn bộ sản phẩm là không khả thi, dẫn đến khó thi hành án.
Ví dụ: Trong vụ án giữa nguyên đơn Công ty Dược phẩm A và bị đơn Công ty B, nếu Tòa tuyên buộc bị đơn thu hồi toàn bộ thuốc GLUSTA đã tiêu thụ trên thị trường thì phán quyết này không thể thực hiện. Đây cũng là một trong những lý do bản án sơ thẩm bị hủy.
Một số lưu ý khi kiểm sát vụ án SHTT
Xác định đúng quan hệ tranh chấp: Tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ có thể liên quan đến sáng chế, nhãn hiệu, kiểu dáng công nghiệp, bí mật kinh doanh, quyền tác giả, quyền liên quan… Nhiều vụ án có yếu tố nước ngoài nên cần áp dụng đúng Điều 464 BLTTDS.
Áp dụng pháp luật chuyên ngành: Cần vận dụng các văn bản như Luật Sở hữu trí tuệ, Luật Khoa học & Công nghệ, Luật Doanh nghiệp, Luật Thương mại, Luật Xuất bản, Luật Điện ảnh, các điều ước quốc tế (Công ước Paris, Thỏa ước Madrid, TRIPS…).
Lưu ý đối tượng không được bảo hộ quyền tác giả:
Tin tức thời sự thuần túy.
Văn bản pháp luật, văn bản hành chính, văn bản của tổ chức chính trị – xã hội.
Các trường hợp được sử dụng quyền liên quan không xin phép (Điều 32 Luật SHTT).
Những đối tượng này không được coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ.
👉 Trên đây là vụ án điển hình về tranh chấp quyền sở hữu trí tuệ trong lĩnh vực dược phẩm tại Việt Nam, cho thấy vai trò quan trọng của giám định chuyên môn, việc xác định đúng người liên quan, cũng như bảo đảm phán quyết có thể thi hành trên thực tế.