NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ
Nguyên đơn trình bày: Ngày 13/9/2013, giữa ông Đặng Tiến Dũng, bà Nguyễn Thị Kim Nhựt và ông Võ Ngọc Quang có ký hợp đồng ủy quyền tại Văn phòng công chứng Đ, có nội dung ủy quyền cho ông Quang được toàn quyền quản lý, sử dụng thửa đất, được quyền cho người khác thuê thửa đất trong thời hạn ủy quyển và toàn quyền định đoạt số tiền cho thuê thu được, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ liên quan đối với thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 6, diện tích 234m, tại thôn V3, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q và ông Dũng, bả Nhựt đã giao Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 104873 do UBND huyện Đ cấp ngày 04/8/2011 cho ông Quang giữ. Bản chất của việc ký hợp đồng ủy quyền là thế chấp tài sản để vợ chồng ông Dũng, bà Nhựt vay của ông Quang số tiền 150.000.000 đồng. Thực hiện hợp đồng vay, phía vợ chồng ông Dũng không trả lãi đúng thỏa thuận. Năm 2019 ông Dũng, bả Nhựt có liên lạc với ông Quang để trả nợ vay thì được biết ông Quang đã chuyển nhượng thửa đất trên cho người khác. Việc ông Quang mang quyền sử dụng đất của ông Dũng, bà Nhựt chuyển nhượng, cho người khác là vi phạm Điều 5 của hợp đồng ủy quyền; nguyên đơn yêu cầu Tòa án tuyên buộc ông Võ Ngọc Quang chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền hai bên đã ký ngày 13/9/2020; tuyên bố các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đã thực hiện đối với thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 06, tại thôn V, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q là vô hiệu, không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, đề nghị Tòa án buộc ông Võ Ngọc Quang trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất trên cho nguyên đơn.
Bị đơn trình bày: Tháng 9/2013, ông Dũng, bà Nhựt vay của ông Võ Ngọc Quang số tiền 150.000.000 đồng, ông Quang yêu cầu ông Dũng, bà Nhựt thực hiện việc ủy quyền giao dịch quyền sử dụng đất để thu hồi tiền nợ trong trường hợp ông Dũng, bà Nhựt vi phạm nghĩa vụ cam kết. Việc ký kết hợp đồng ủy quyền đúng như phía nguyên đơn tinh bày, ông Quang nhận giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Trong quá trình thực hiện hợp đồng vay đến năm 2018, ông Dũng bà Nhựt vi phạm việc trả lãi hàng tháng, cố tình trốn tránh, không cung cấp địa chỉ, ông Quang đã liên lạc với ông Dũng, bà Nhựt nhưng không được. Để đảm bảo quyền lợi của mình và thu hồi một phần số tiền đã cho vay nên vào ngày 03/3/2018 ông Quang đã chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên cho ông Phan Văn Can với giá chuyển nhượng 100.000.000 đồng. Ông Quang đã xác lập giao dịch chuyển nhượng theo ủy quyền một cách hợp pháp và phù hợp với điều kiện chuyển nhượng tài sản đảm bảo thu hồi số tiền đã cho mượn vì ông Dũng, bà Nhựt đã vi phạm nghĩa vụ trả tiền. Vì vậy, Ông không đồng ý với toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Đồng thời bị đơn cũng không yêu cầu xử lý hợp đồng vô hiệu vì các giao dịch đã thực hiện là hợp pháp và không còn liên quan đến ông Quang. Đối với việc ông Dũng, bà Nhựt yêu cầu tính số tiền lãi đã trả, tiếp tục tính lãi cùng với số nợ gốc để thanh toán và trả lại Giấy chứng nhận, Ông không đồng ý vì không thể thực hiện được do đã chuyển nhượng thừa đất cho người khác để thu hồi nợ.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT VỤ ÁN
– Bản án dân sự sơ thẩm số số 43/2022/DS-ST ngày 12 tháng 4 năm 2022 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q quyết định: Không chấp nhận yêu cầu của ông Đặng Tiến Dũng, bà Nguyễn Thị Kim Nhựt về việc yêu cầu chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền, tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu và trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 6 tại thôn V, xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 104873 do UBND huyện Đ cấp ngày 04/8/2011.
Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về án phí, chi phí tổ tụng, nghĩa vụ thi hành án và quyền kháng cáo của các đương sự.
Ngày 27/4/2022, các nguyên đơn có đơn kháng cáo toàn bộ Bản án sơ thẩm.
– Bản án dân sự phúc thẩm số 56/2022/DS-PT ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q quyết định: Chấp nhận một phần kháng cáo của các nguyên đơn Đặng Tiến Dũng, Nguyễn Thị Kim Nhựt, sửa Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2022/DS-ST ngày 12/4/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q
Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn: Tuyên bố hợp đồng ủy quyền giữa ông Đặng Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Kim Nhật ký kết với ông Và Ngọc Quang ngày 13/9/2013, được công chứng tại Văn phòng Công chứng Đ vô hiệu;
Buộc ông Võ Ngọc Quang phải trả cho ông Đặng Tiến Dũng và bà Nguyễn Thị Kim Nhụt giá trị quyền sử dụng thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 06, tại thôn Vi xã Đ, thị xã Đ, tỉnh Q là 1.677.000 đồng.
Không chấp nhận phần yêu cầu khởi kiện của các nguyên đơn về việc tuyên bổ các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Võ Ngọc Quang (đại diện ông Đặng Tiến Dũng, bà Nguyễn Thị Kim Nhựt) với ông Phan Văn Can lập, công chúng ngày 03/3/2018, giữa ông Phan Văn Can với bà Nguyễn Thị Hồng lập, công chứng ngày 14/5/2018 và giữa bà Nguyễn Thị Hồng với các ông Trương Văn Thanh, Trần Đình Bửu lập công chúng ngày 18/01/2019, chuyển nhượng quyền sử dụng thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 06, tại thần tại thôn V, xã. Đ, thị xã Đ, tỉnh Q vô hiệu.
Ngoài ra Bản án phúc thẩm còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng, thi hành án và hiệu lực pháp luật của bản án.
Quyết định giám đốc thẩm số 05/2024/DS-GĐT ngày 27/01/2024 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 20/2023/KN-DS ngày 20/12/2023 của Chánh án TAND cấp cao tại Đà Nẵng, hủy toàn bộ Bản án dân sự phúc thẩm số 56/2023/DS-PT ngày 25/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh Q và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm số 43/2022/DS-ST ngày 12/4/2022 của Tòa án nhân dân thị xã Đ, tỉnh Q.
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
Ngày 13/9/2013 ông Dũng, bà Nhựt (nguyên đơn) với ông Quang (bị đơn) lập Hợp đồng ủy quyền có sổ công chúng 03069, quyển số 02/TP/CC-SCC/HĐGD tại Văn phòng Công chứng Đ. Ông Dũng, bà Nhựt cho rằng việc ký hợp đồng ủy quyền nhằm mục đích để Ông Bà vay của ông Quang số tiền 150.000.000 đồng; ông Quang xác nhận ông Dũng, bà Nhựt có vay tiền của Ông và việc ký Hợp đồng ủy quyền nhằm đảm bảo thu hồi nợ trong trường hợp ông Dũng, bà Nhựt vi phạm cam kết. Như vậy, các bên đều hoàn toàn tự nguyện khi ký hợp đồng ủy quyền như một biện pháp bảo đảm cho khoản nợ mà ông Dũng, bà Nhựt vay của ông Quang. Khi ký kết hợp đồng ủy quyền, các bên có đầy đủ năng lực hành vi dân sự và hoàn toàn tự nguyện, nội dung thỏa thuận hợp đồng ủy quyền không trái đạo đức, không vi phạm điều cấm của pháp luật. Ngoài việc ký hợp đồng ủy quyền, các bên không có thỏa thuận khác liên quan đến việc ủy quyền, do vậy hợp đồng ủy quyền có hiệu lực pháp luật.
Điều 1 Hợp đồng ủy quyển, có nội dung: Bên A (ông Dũng, bà Nhựt) ủy quyền cho bên B (ông Quang) được quyền thay mặt và nhân danh bên A thực hiện các công việc cụ thể sau đây: Được toàn quyền quản lý, sử dụng thửa đất; … được toàn quyền định đoạt quyền sử dụng đất nêu trên như mua bán, chuyển nhượng tặng cho, thế chấp. Giá cả, điều kiện và hình thức định đoạt do bên B tự quyết định; được quyền thay mặt bên A ký kết các hợp đồng mua bán, chuyển nhượng, tặng cho, thế chấp, cho thuê quyền sử dụng đất nêu trên và ký kết hợp đồng hủy bỏ các loại hợp đồng này,
Trong phạm vi ủy quyền, ngày 03/3/2018 ông Quang chuyển nhượng thừa đất nêu trên cho ông Phan Văn Can với giá 100.000.000 đồng; việc ông Quang chuyển nhượng thửa đất cho ông Can đã được ông Dũng, bà Nhựt ủy quyền tại hợp đồng ủy quyền; hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Quang với ông Can được công chúng và đã được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đăng ký biến động sang tên ông Phan Văn Can ngày 10/4/2018, do đó hợp đồng chuyển nhượng này được pháp luật bảo vệ.
Tòa án cấp phúc thẩm cho rằng hợp đồng ủy quyền vô hiệu, nên ông Quang không có tư cách chủ thể để ký kết hợp đồng chuyển nhượng, từ đó căn cứ khoản 2 Điều 137 Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu, buộc ông Quang phải trả cho ông Dũng, bà Nhựt giá trị quyền quyền sử dụng đất tại thửa đất số 698/2, tờ bản đồ số 06, với số tiền 1.677.000.000 đồng là không có căn cứ và vượt quá phạm vi khởi kiện vì nguyên đơn và bị đơn đều không yêu cầu giải quyết hậu quả của hợp đồng vô hiệu.
Hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/9/2013, thời hạn ủy quyền 10 năm. Tuy nhiên, ngày 03/10/2019, ông Dũng gửi Thông báo đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng ủy quyền đối với ông Quang. Các tài liệu, chứng cứ cổ tại hồ sơ vụ án thể hiện bị đơn đã nhận được Thông báo này. Xét thấy đây là hợp đồng ủy quyền không có thù lao, trong khi ông Dũng đã gửi Thông báo đơn phương chấm dứt thực hiện việc ủy quyền cho ông Quang. Theo Điều 588 và Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2005 việc ông Dũng đơn phương chấm dứt hợp đồng ủy quyền là đúng quy định. Đáng lẽ Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm cần chấp nhận yêu cầu khởi kiện về nội dung này và tuyên bố chấm dứt hợp đồng ủy quyền mới đúng với khoản 3 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2005. Nhưng Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về nội dung này; Tòa án cấp phúc thẩm chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, nhưng lại tuyên bố hợp đồng ủy quyền vô hiệu là không có căn cứ.
Sau khi ông Quang (bị đơn) chuyển nhượng thửa đất nêu trên cho ông Phan Văn Can, ông Can chuyển nhượng lại cho bà Nguyễn Thị Hồng, bà Hồng tiếp tục chuyển nhượng cho ông Trương Văn Thanh, ông Trần Đình Bửu. Các giao dịch chuyển nhượng này đều tuân thủ các quy định của pháp luật. Do hợp đồng ủy quyền và các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất nêu trên là hợp pháp, nên Tòa án cấp sơ thẩm không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc trả lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BE 104873, do UBND huyện Đ cấp ngày 04/8/2022 cho ông Dũng, bà Nhựt là hoàn toàn có căn cứ.
Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm có những sai sót trong quá trình giải quyết vụ án, đáng lẽ cần sửa án phúc thẩm theo hướng chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn về việc tuyên bố chấm dứt hợp đồng ủy quyền lập ngày 13/9/2013; tuy nhiên đến thời điểm hiện tại thì thời hạn ủy quyền 10 năm mà các bên thỏa thuận tại Điều 2 của hợp đồng ủy quyền đã hết (từ ngày 13/9/2013 đến ngày 13/9/2023) theo khoản 1 Điều 589 Bộ luật Dân sự năm 2005 thi hợp đồng ủy quyền đã chấm dứt. Do đó, việc tuyên chấm dứt hợp đồng ủy quyển trong trường hợp này không còn cần thiết. Trên đây là vi phạm của TAND tỉnh Q trong việc giải quyết vụ án dân sự “Tranh chấp hợp đồng ủy quyền, yêu cầu tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu” bị cấp giảm đốc thẩm hủy Bản án phúc thẩm và giữ nguyên Bản án dân sự sơ thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo đến VKSND tỉnh, thành phố trong khu vực tham khảo và rút kinh nghiệm để nâng cao chất lượng khi kiểm sát giải quyết vụ án dân sự tương tự.