Tranh chấp đất thừa kế và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

Tranh chấp đất thừa kế và yêu cầu hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.

NỘI DUNG VỤ ÁN DÂN SỰ

Diện tích 199,1m đất tranh chấp nằm trong tổng diện tích 3.120m thuộc thửa đất số 58 đã được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) S cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W427763 ngày 24/10/2003 cho ông Phạm Đào Th. Nguồn gốc thửa đất số 58, diện tích 3.120m tại khu phố L, phường X, thị xã S tỉnh P là của cố Phạm H và cố Trần Thị D tạo lập. Vợ chồng cố H, cố D có các con, trong đó 02 người con đang sử dụng thửa đất là cụ Phạm T (cha ông Phạm Đào Th) và cụ Phạm Thị L (mẹ bà Trương Thị Thl). Bà Th1 có chồng là ông Trần M1 sinh được các người con: Trần H, Trần Nh, Trần Thị G, Trần Th2, Trần B. Tất cả các thế hệ gia đình đều sinh sống trên mảnh đất đang tranh chấp từ thời cụ L còn sống đến nay.

Hiện tại, trên thửa đất có 02 ngôi nhà gồm 01 ngôi nhà của cụ Phạm Thị L để lại cho bà Trương Thị Th1 (bà Th1 để lại cho ông Trần H) và 01 ngôi nhà do vợ chồng nguyên đơn bà Phạm Thị M cùng chồng là ông Trần H tạo lập.

Ngày 27/3/2019, nguyên đơn bà Phạm Thị M khởi kiện yêu cầu Tòa án công nhận quyền sử dụng đất có diện tích 199,1m thuộc một phần trong diện tích đất 3.120m của thửa đất số 58, tờ bản đồ ĐCII-18 theo giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W427763 ngày 24/10/2003 do Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) S cấp cho ông Phạm Đào Th thuộc quyền sử dụng của gia đình bà M và hủy một  phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W427763 ngày 24/10/2003 đã cấp cho ông Phạm Đào Th đối với diện tích đất 199,1m nêu trên.

QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

Bản án dân sự sơ thẩm số 41/2023/DS-ST ngày 21/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh P tuyên:

“1. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn bà Phạm Thị M và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan Trần Văn H, Trần Văn Hi, Trần Thị H2, Trần Thị H3, Trần Thị H4 về việc công nhận diện tích đất 199,1m2 nằm trong tổng diện tích 3.120m3 thuộc thửa đất số 58, tờ bản đồ ĐCI-18, tọa lạc tại khu phố L phường X, thị xã S, tỉnh P có giới cận: Đông giáp đường Đoàn Thị Điểm, Tây giáp đường Phạm Văn Đồng. Nam giáp nhà ông K (đã giải tỏa), Bắc giáp nhà ông N hiện gia đình đang quản lý, sử dụng thuộc quyền quản lý, sử dụng của gia đình nguyên đơn.

2. Không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn về việc hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W427763 ngày 24/10/2003 đã cấp cho ông Phạm Đào Th đối với diện tích đất 199,1m. “

Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí, chi phí tố tụng và quyền kháng cáo.

Ngày 30/3/2023, các ông, bà Phạm Thị M, Trần Văn H, Trần Văn H1, Trần Thị H2, Trần Thị H3, Trần Thị H4 kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm.

Ngày 05/4/2023, Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 02/QĐ-VKS-DS kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm trên, đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xử hủy bản án dân sự sơ thẩm và giao hồ sơ về Tòa án cấp sơ thẩm giải quyết lại vụ án.

Bản án dân sự phúc thẩm số 247/2023/DS-PT ngày 11/9/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng tuyên:

“Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn – bà Phạm Thị M và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn H, ông Trần Văn H1, bà Trần Thị H2, bà Trần Thị H3, bà Trần Thị H4; chấp nhận Quyết định kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P.

1. Hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 03/2023/DS-ST ngày 23/3/2013 của Tòa án nhân dân tỉnh P. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh P giải quyết lại vụ án theo thủ tục sơ thẩm.

2. Ngoài ra, Bản án còn tuyên về án phí.

NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

Diện tích đất 199,1m2 nằm trong tổng diện tích 3.120m thuộc thửa đất số 58, tờ bản đồ ĐCII-18 đã được Ủy ban nhân dân huyện (nay là thị xã) 5 cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số W427763 ngày 24/10/2003 cho ông Phạm Đào Th là của cố Phạm H tạo lập. Cố Phạm H có các con trong đó có 02 người con đang sử dụng thửa đất của cổ H là cụ Phạm T (cha ông Th) và cụ Phạm Thị L. Cụ L xây dựng nhà ở trên thửa đất của cổ H từ năm 1947, tại thời điểm cụ L xây nhà thì cụ Phạm T còn sống nhưng không có ý kiến gì về việc sử dụng đất của cụ L. Cụ L chết, ngôi nhà được giao cho con là bà Trương Thị Thủ. Bà Thì chết, nhà và đất giao lại cho ông Trần H (con bà Thl, chồng của nguyên đơn bà M) sử dụng cho đến nay. Do đó, cụ L và bà Thì không phải là người ở nhờ trên đất của cổ Phạm H.

Bà M xác định diện tích 199,1m3 đất tranh chấp là do mẹ chồng là bà Trương Thị Thủ cho vợ chồng bà M ở từ năm 1976, khi đó trên đất có 01 ngôi nhà của mẹ chồng thừa hưởng của bà ngoại Phạm Thị L. Cha mẹ chồng của bà M sinh được các người con: Trần H (chồng bà M, đã chết), Trần Nh (đã chết), Trần Thị G, Trần Thủ, Trần B, các thế hệ gia đình đều được sinh sống trên mảnh đất đang tranh chấp từ đó cho đến khi các anh chị em khác có gia đình ở riêng. Bà M xác định diện tích đất tranh chấp là do bà Thì cho vợ chồng bà M nhưng không có chứng cứ. Bản án sơ thẩm không đưa những người thừa kế của bà Trương Thị Thủ vào tham gia tố tụng trong vụ án nhưng lại xác định diện tích đất đang tranh chấp không phải của bà Th1 làm ảnh hưởng đến quyền lợi của các đồng thừa kế của bà Th1.

Ngoài ra, tại mục nguồn gốc sử dụng đất của Đơn đăng ký và xin cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông Phạm Đào Th ngày 30/10/2002 được Ủy ban nhân dân thị trấn S xác nhận ngày 02/6/2003, ông Th ghi “ông bà để lại” nhưng ông Th không có giấy tờ nào chứng minh là được nhận di sản thừa kế theo quy định của Pháp lệnh thừa kế năm 1990, Bộ luật dân sự năm 1995, Luật đất đai năm 1993. Bản án sơ thẩm nhận định ông Th được nhận di sản thừa kế theo truyền thống “cha truyền con nối” là không đúng quy định pháp luật về thừa kế.

Do đó, Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn bà Phạm Thị M và những người có quyền lợi nghĩa vụ liên quan ông Trần Văn H, ông Trần Văn H1, bà Trần Thị H2, bà Trần Thị H3, bà Trần Thị H4; chấp nhận Quyết định kháng nghị số 02/QĐ-VKS-DS ngày 05/4/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tỉnh P. Hủy bản án dân sự sơ thẩm số 03/2023/DS-ST ngày 23/3/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh P để giải quyết lại vụ án.

Luật sư Tân BìnhVăn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp