Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án tranh chấp đất thị xã Buôn Hồ, Đắk Lak
I. NỘI DUNG VỤ ÁN.
Ngày 29/6/1989, Phòng Giáo dục huyện Krông B, tỉnh L có ký hợp đồng trồng và chăm sóc cà phê với một số cán bộ nhân viên của phòng, trong đó có bà H. Bà H được nhận lô đất số 9, diện tích là 4,055,5m2 tại tổ dân phố 11, phường An Bình, thị xã H, tỉnh L. Lô đất được tách ra làm 02 thửa (thửa đất số 51, tờ bản đồ số 18, diện tích 3.188,8m2 và thửa đất số 70, tờ bản đồ số 52, diện tích 870,4m2).
Năm 1999, ông Quách Hữu Th (em chồng của bà H) chưa có nơi ở nên vợ chồng bà H có cho ông Th mượn diện tích đất 35m2 (dài 10m, rộng 3,5m) để làm nhà tạm. Năm 2000, ông Th đưa vợ con đến ở. Đen năm 2001, ông Th chết. Quá trình sử dụng, gia đình bà Phan Thị L (vợ ông Th) và anh Quách Hữu T (con bà L) có xin làm hàng rào đế nuôi gà.
Ngày 26/02/2018, gia đình bà H đổ vật liệu làm chòi cà phê thì xảy ra tranh chấp. Tháng 01/2019, gia đình anh T (con bà L) tự ý mở rộng thêm khoảng 18m phía Tây ngôi nhà. Bà H khởi kiện yêu càu bà Phan Thị L, ông Quách Hữu T phải trả lại cho Bà diện tích đất khoảng 870,4m2, thuộc thửa đất số 70, tờ bản đồ số 52, tại 160 Nguyễn Trãi, tổ dân phố 11, phường An Bình, thị xã H, tỉnh L.
Bị đơn bà Phan Thị L và ông Quách Hữu T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn và cho rằng: năm 1998, ông Quách Hữu Th (chồng bà L) được vợ chồng bà Phan Thị H chỉ lô đất bỏ hoang (thửa đất tranh chấp) đe ở. Năm 1999, ông Th đã khai hoang và xây tạm ngôi nhà cấp 4, diện tích khoảng 3Om . Vợ chồng bà L đã trồng một số cây ăn trái như mít, bơ và xây dựng chuồng chăn nuôi heo, gà.
Quá trình khai hoang đất và xây dựng nhà, công trình phụ có nhiều người làm chúng là các hộ dân xung quanh và ông thôn trưởng Cao Xuân Th biết. Năm 2001, chồng bà L là ông Quách Hữu Th chết. Bà L và các con tiếp tục sử dụng ngôi nhà và tài sản trên đất ôn định. Bà L và anh T không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của bà H vì diện tích đất này do gia đình Bà khai hoang, không phải mượn đất của vợ chồng bà H. Diện tích đất của bà H được Phòng giáo dục cấp chi 2.000m2. Thửa đất số 70, diện tích 870,4m2 không nằm trong lô đất số 9 của bà H được cấp.
II. QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN
Bản án dân sự sơ thẩm số 22/2021/DS-ST ngày 03/6/2021 của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh L đã quyết định:
“Châp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Phan Thị H:
Buộc bà Phan Thị L, anh Quách Hữu T trà lại cho bà Phan Thị H toàn bộ thửa đát sở 70, tờ bán đô sô 52, ỉô đât chua được cấp Giấy chímg nhận quyền sử dụng đất. Được thẩm tra đo đạc thực tế có diện tích là 571,2m2. Toạ lạc tại tổ dân pho 11, phường An Bĩnh, thị xã H, tỉnh L…. Trên đất có các tài sàn như sau: Nhà có diện tích 61,75m2 kết cấu móng xây đả hộc…Giếng và các cây trồng gồm Bơ 14 cây, Dừa 01 cây, Tiêu 18 cây, sầu riêng 02 cây, Mít 07 cây, Sam pu chê 01 cây, Chè 05 cây, Lê ki ma 01 cây, oi 01 cây; cau 03 cây.
Bà Phan Thị H có nghĩa vụ trả lại giá trị nhà và tài sán trên đẩt cho bà Phan Thị L, anh Quách Hữu T so tiền là 256.871.024 đồng (Hai trăm năm mươi sáu triệu tám trăm bảy mươi mốt nghìn không trăm hai bon đồng) gồm: Tiền nhà 104.954.424d, 01 giếng 41.116.600 đồng, tiền cây trồng trên đất 10.800.000 đồng và khoản tiền chi phí quản lý, tôn tạo nâng giá trị đất là 100.000.000d (Một trăm triệu đồng)…
Bà Phan Thị H được quyền kê khai cap Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền ”.
Ngày 15/6/2021, nguyên đơn bà Phan Thị H kháng cáo không đồng ý trả lại giá trị nhà và tài sản trên đất cho bà Phan Thị L, anh Quách Hữu T số tiền là 256.871.024 đồng.
Ngày 19/6/2021, bị đơn ông Quách Hữu T kháng cáo toàn bộ bản án sơ thẩm, không đồng ý buộc gia đình ông T phải trả đất cho bà H.
Ngày 16/6/2021, Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, tỉnh L có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 121/QĐKNPT-VKS-DS theo hướng sửa bản án dân sự sơ thẩm, chỉ buộc nguyên đơn trả lại cho bà Phan Thị L và anh Quách Hữu T chi phí công sức nạo vét, duy trì để sử dụng cái giếng nước là 10.000.000 đồng (Mười triệu đồng) và sửa về án phí dân sự theo quy định của pháp luật.
Bản án dân sự phúc thẩm số 163/2021/DS-PT ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L, quyết định:
“Không chap nhận đơn kháng cáo của nguyên đơn bà Phan Thị H; không chấp nhận kháng nghị của Viện kiếm sát nhân dân thị xã H, tỉnh L; châp nhận kháng cáo của bị đơn anh Quánh Hữu T; sửa Bản án dân sự sơ thẩm so 22/2021/DS-ST ngày 03/6/202ỉ của Tòa án nhân dân thị xã H, tỉnh L, tuyên xử:
Bác toàn bộ yêu cầu khởi kiện của bà Phan Thị H về việc buộc bà Phan Thị L, anh Quách Hữu T trả lại cho bà Phan Thị H toàn bộ thửa đât sô 70, tờ bản đô số 52, có diện tích là 57 ỉ, 2 tn và tài sản gắn liền với đất toạ lạc tại tổ dân pho 11, phường An Bỉnh, thị xã H, tỉnhL”.
Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang nhận được đon đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của nguyên đon bà Phan Thị H và Báo cáo đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của Viện kiểm sát nhân dân tỉnh L đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thấm đối với bản án dân sự phúc thấm.
Ngày 01/8/2023, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nằng ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 54/QĐ-VKS-DS theo hướng hủy toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm; giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 44/2023/DS-GĐT ngày 15/11/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nằng đã chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang; huỷ toàn bộ bản án dân sự phúc thẩm; giao hồ sơ vụ án cho tòa án cấp phúc thẩm để giải quyết lại vụ án.
III. NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN RÚT KINH NGHIỆM
Năm 1989, Phòng giáo dục huyện Krông B (nay là thị xã H) tỉnh L có chủ trương ký hợp đồng trồng và chăm sóc cà phê với một số cán bộ, nhân viên của phòng giáo dục. Mỗi cán bộ, nhân viên được giao khoán là 2000m2 (2 sào), trong đó bà Phan Thị H được giao lô số 09 và ông Trần Văn H được giao lô số 08. Nhưng sau khi được giao đất trồng cà phê, ông H không quản lý sử dụng. Bà H cho rằng thửa đất tranh chấp là thửa đất số 09 của Bà được giao, còn thửa đất ông H không sử dụng nên Bà đã sử dụng và được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Quá trình giải quyết đơn ở giai đoạn giám đốc thẩm, bà H đã bo sung một số tài liệu, chứng cứ:
Đơn xin xác nhận ngày 02/10/2023 của bà H, được ƯBND phường An Bình, thị xã H xác nhận ngày 03/10/2023 thể hiện: khu đất được Phòng Giáo dục giao hợp đồng trồng cà phê có phía Nam giáp đường Cung Kiệm nay là đường Nguyễn Trãi.
Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho ông D, ông Ch các thửa đất theo hợp đồng trong cà phê cùng đợt với bà H đều thể hiện phía Nam của thửa đất giáp với đường Nguyễn Trãi (khoảng 20 m mặt đường).
Theo Giây chứng nhận quyền sử dụng đất cấp cho bà H (thửa 51) chỉ giáp đường Lạc Long Quân mà không giáp đường Nguyễn Trãi.
Tại Bản trích đo địa chính thửa đất tranh chấp thể hiện phía Nam thửa đất giáp với đường Nguyễn Trãi khoảng 20m.
Theo Biên bản xác minh ngày 05/10/2023 của Viện kiểm sát nhân dân thị xã H, Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thị xã H xác định: hiện tại bà Phan Thị H chưa có thửa đất nào đãng ký cấp Giấy Chứng nhận quyền sử dụng đất mặt đường Nguyễn Trãi và phần đất tranh chấp là một phần thửa đất của bà Phan Thị H được phòng Giáo dục huyện cấp năm 1989.
Như vậy, đất Phòng giáo dục giao đất cho cán bộ trồng cà phê đều có một mặt giáp đường Nguyễn Trãi, nhưng hiện nay phần đất bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không giáp đường Nguyễn Trãi, chỉ có thửa đất tranh châp giáp đường Nguyễn Trãi nên có cơ sở khẳng định thửa đất tranh chấp là của bà H được giao lô số 09 (không tính đất lấn chiếm của ông H) là phù hợp với các thửa đất phòng giáo dục đã giao.
Ngoài ra, những người làm chứng là ông Quách Hữu Đ (em ruột của ông ông B, chồng bà H và là anh ruột của ông Th, chồng bà L) và ông Ch (cán bộ phòng giáo dục, được giao đất cùng đợt) đều khẳng định năm 1999, vợ chồng bà H cho ông Th mượn đất làm nhà đe đưa vợ con từ ngoài bắc vào sinh sống.
Bên cạnh đó, tại Tờ trình số 29/Ttr-UBND ngày 26/4/2018 của UBND phường An Bình, thị xã H về việc xin ý kiến giải quyết đơn xin cấp đất có nội dung: “ Thửa đất bà H hợp đồng là thửa đất số 51, tờ bản đồ so 18, diện tích 3188,8m2 và thừa đất số 70, tờ bản đồ sổ 18, diện tích 870,4m2 (hiện trạng gia đĩnh bà H đang canh tác tại thửa 51,…., còn ỉại thửa đất số 70…. ông Quách Hũii T là cháu cũa chông bà Phan Thị H đang sừ dụng trồng cây công nghiệp và làm nhà ờ)… Như vậy, UBND phường An Bình cũng xác định cả hai thửa 51 và 70 đều là đất hợp đồng trồng cà phê do bà H đứng tên họp đồng.
Căn cứ vào Trích đo địa chính và hiện trạng sử dụng đất có cơ sở xác định ông Trần Văn H được giao lô đất số 08 và bà Phan Thị H được giao lô đất số 09, nhưng ông H không sử dụng nên bà H lấn chiếm thửa số 08 hợp với thửa số 09 của bà H thành một thửa lớn để quản lý, sử dụng chung. Năm 1993, bà H đào một cái giếng trên phần đất tranh chấp để sử dụng. Đen năm 1999, vợ chồng bà H cho ông Th (em chồng bà H) mượn một phần diện tích đất thuộc thửa đất Phòng giáo dục giao cho bà H từ năm 1989 và đào giếng từ năm 1993; phần diện tích đất còn lại trong thửa đất của ông H thì vợ chồng bà H vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng nên việc bà L và anh T cho rằng thửa đất tranh chấp là đất hoang do ông Th, bà L khai hoang là không cơ sở.
Như vậy, gia đình bà H thuộc đối tượng được Phòng giáo dục giao đất trông cà phê và đã sử dụng ổn định từ năm 1989 (trước ngày 15/10/1993), đến năm 1999 mới cho gia đình ông Th mượn, nên tòa án cấp sơ thẩm đã chấp nhận yêu câu khởi kiện của bà H, buộc bà L, anh T trả lại diện tích đất cho bà H và bà H được quyền liên hệ với cơ quan Nhà nước có thẩm quyền để được cấp Giấy chứng nhận là có căn cứ. Tòa án cấp phúc thấm không xác minh, thu thập chứng cứ đế làm rõ quá trình sử dụng đất cũng như hiện trạng sử dụng đất (phần đất bà H được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất không giáp đường Nguyên Trãi) như đã phân tích ở trên, nhưng đã bác yêu cầu của bà H là không đúng quy định.
Tuy nhiên, gia đình bà L, anh T đã có nhà trên đất từ năm 1999, để đảm bảo nơi ở ổn định cho gia đình bà L và anh T nên cần giao phần đất có nhà cho bà L, anh T (đủ điều kiện tách thửa) và buộc bà L, anh T trả lại giá trị đất cho bà H sau khi đã trừ đi giá trị tài sản và chi phí tôn tạo làm tăng giá trị đất của bà L và anh T nên Hội đồng giám đốc thẩm đã chấp nhận một phần kháng nghị giám đốc thẩm số 54/QĐ-VKS-DS ngày 01/8/2023 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nang, hủy toàn bộ Bản án phúc thẩm số 163/2021/DS-PT ngày 27/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh L; giao hồ sơ vụ án cho tòa án nhân dân tỉnh L đế xét xử phúc thấm lại vụ án.
- Tranh chấp đất thị xã Buôn Hồ, Đắk Lak
- Tội không truy cứu trách nhiệm hình sự người có tội
- Thế nào là phạm tội cướp tài sản có tính chất chuyên nghiệp?
- Người dưới 18 tuổi phạm tội trộm cắp tài sản có bị xem là án tích hay không ?
- Vai trò của luật sư trong việc trợ giúp khách hàng khi lấy lời khai, thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ