Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự
Điều 259. Tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự
1. Người nào không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, lệnh gọi tập trung huấn luyện, đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ một năm đến năm năm:
a) Tự gây thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của mình;
b) Phạm tội trong thời chiến;
c) Lôi kéo người khác phạm tội.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm
Chủ thể của tội phạm này tuy không phải là chủ thể đặc biệt, chỉ cần hội tụ đủ điều kiện theo quy định của pháp luật là có thể là chủ thể của tội phạm này. Tuy nhiên, cũng chỉ đối với những người ở một độ tuổi nhất định theo Luật nghĩa vụ quân sự quy định mới có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Luật nghĩa vụ quân sự thì, Công dân nam giới đủ 18 tuổi được gọi nhập ngũ; lứa tuổi gọi nhập ngũ từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi, nhưng không phải chỉ những người từ đủ 18 tuổi đến hết 27 tuổi mới là chủ thể của tội phạm này, vì đó là tuổi gọi nhập nhũ, còn theo quy định tại Điều 20 Luật ghĩa vụ quân sự thì, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Do đó, chủ thể của tội phạm này là công dân năm giới từ đủ 17 tuổi đến hết 27 tuổi. Tuy nhiên, tuỳ từng hành vi phạm tội cụ thể mà chủ thể của tội phạm này là năm giới từ đủ 17 tuổi hay từ đủ 18 tuổi. nếu người phạm tội có hành vi không chấp hành quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi huấn luyện thì chỉ cần đủ 17 tuổi, nhưng nếu người phạm tội có hành vi không chấp hành lệnh gọi ngập ngũ thì họ phải đủ 18 tuổi.
Đối với phụ nữ, chỉ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này khi họ có chuyên môn cần cho quân đội, trong thời bình không chấp hành việc dăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc không chấp hành lệnh gọi huấn luyện. Nếu trong thời chiến thì họ có thể trở thành chủ thể của tội phạm này đối với cả hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, còn trong thời bình họ chỉ được gọi nhập ngũ nếu họ tự nguyện, nên không phải là chủ thể của tội phạm này.
Như vậy việc xác định chủ thể của tội phạm này phải căn cứ vào các quy định của Luật nghĩa vụ quân sự và các Luật sửa đổi, bổ sung luật này có liên quan đến giới tính, độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự.
Để có thể trở thành chủ thể của tội phạm này, ngoài các dấu hiệu trên, người có hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự khi người thực hiện hành vi phải là người “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”
Đã bị xử phạt hành chính về hành vi này là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, người phạm tội đã bị xử phạt hành chính cũng về các hành vi trên bằng một trong các hình thức được quy định trong Pháp lệnh xử phạt hành chính do cơ quan Nhà nước có thẩm quyền áp dung mà chưa quá một năm; nếu người phạm tội bị xử phạt hành chính về hành vi khác (không phải là hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện) chưa cấu thành tội phạm này.
Khi xác định tình tiết đã bị xử phạt hành chính về hành vi này mà còn vi phạm cần chú ý: Nếu người phạm tội đa bị xử phạt hành chính về hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, nhưng sau đó họ không vi phạm hành vi này mà thực hiện hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ, thì không bị coi là mà còn vi phạm, vì điều luật không quy định “đã bị xử phạt về một trong các hành vi này”. mặt khác đối với tội phạm này nhà làm luật quy định hành vi phạm tội gồm 3 hành vi khác nhau nên không thể coi cả ba hành vi trên là một.
Đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm là trường hợp, trước khi thực hiện hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, người phạm tội đã bị Toà án kết án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự chưa được xoá án tích theo quy định tại Điều 77 Bộ luật hình sự; nếu người phạm tội bị kết án về tội phạm khác ( không phải là tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự ) thì cũng không phạm tội này. Quy định này khác với trường hợp “đã bị xử phạt hành chính về hành vi này” ở chỗ: người phạm tội bị kết án về tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự có thể do thực hiện một trong ba hành vi, nên hành vi vi phạm sau khi bị kết án cũng có thể là một trong ba hành vi đó chứ không nhất thiết phải cùng loại hành vi.
2. Các dấu hiệu thuộc về khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm này là xâm phạm đến hoạt động bình thường của cơ quan Nhà nước trong lĩnh vực quản lý hành chính về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện.
Tuy chỉ là lĩnh vực quản lý hành chính, nhưng liên quan trực tiếp đến việc thi hành Luật nghĩa vụ quân sự và việc tổ chức thực hiện việc đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện lại do cơ quan quan sự địa phương thực hiện, nên có thê rnói tội phạm này xâm phạm trự tiếp đến hoạt động bình thường của cơ quan quân sự địa phương về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội này, có thể thực hiẹn một hoặc một số hành vi sau:
– Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự;
– Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ;
– Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện.
Không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự là hành vi không thực hiện hoặc thực hiện không đúng việc đăng ký nghĩa vụ quân sự theo quy định của pháp luật như: đã có lệnh gọi, nhưng không đến cơ quan quân sự đăng ký nghĩa vụ quân sự hoặc đến không đúng thời gian, địa điểm đăng ký; không khám sức khoẻ hoặc có hành vi gian dối khi khám sức khoẻ nhằm trốn tránh việc nhập ngũ.
Theo quy định tại Điều 20 Luật nghĩa vụ quân sự thì tháng 4 hàng năm, theo lệnh gọi của chỉ huy trưởng quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh, công dân nam giới đủ 17 tuổi trong năm đó phải đến cơ quan quân sự để đăng ký nghĩa vụ quân sự. Việc kiểm tra sức khoẻ cho những người đăng ký nghĩa vụ quân sự do cơ quan y tế huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh phụ trách. Người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự được gọi là người sẵn sàng nhập ngũ.
Không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ là hành vi của người đã đăng ký nghĩa vụ quân sự, có lệnh gọi nhập ngũ nhưng không nhập ngũ hoặc đã đến nơi nhập ngũ lại bỏ trốn không thực hiện các thủ tục cần thiết để nhập ngũ. Nếu đã làm thủ tục nhập ngũ, đã trở thành quân nhân mà bỏ trốn thì không thuộc trường hợp phạm tội này mà phạm tội “đào ngũ” quy định tại Điều 325 Bộ luật hình sự.
Được coi là đã có lệnh gọi nhập ngũ là trường hợp người phạm tội đã nhận được lệnh gọi nhập ngũ do chỉ huy trưởng quận sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và lệnh gọi nhập ngũ phải được đưa trước 15 ngày. Nếu lệnh gọi nhập ngũ không phải do cơ quan quân sự huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh hoặc lệnh đó không phải của chỉ huy trưởng quân sự mà người được gọi nhập ngũ không chấp hành thì không có hành vi phạm tội này.
Trường hợp người được gọi nhập ngũ biết trước sẽ có lệnh gọi nhập ngũ nhưng đã cố tình trốn tránh như: bỏ đi khỏi địa phương để lấy cớ không nhận được lệnh gọi nhập ngũ thì cũng coi là có hành vi không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ. Ví dụ: Trần Huy T đã đăng ký nghĩa vụ quân sự tại huỵên Tiền Hải, tỉnh Thái Bình, T biết vào tháng 2 cơ quan quân sự huyện sẽ gọi nhập ngũ, nên sau khi ăn tết nguyên đán, T bỏ vào thành phố Hồ Chí Minh chơi với anh trai và lấy lý do không nhận được giấy gọi nhập ngũ để trốn tránh việc nhập ngũ.
Trường hợp cơ quan quân sự gọi nhập ngũ không đúng thời gian theo quy định của luật nghĩa vụ quân sự mà người được gọi không biết nên không chấp hành thì không coi là hành vi phạm tội. Ví dụ: Chính phủ đã quyết định việc gọi nhập ngũ vào tháng 4, nhưng Hội đồng quân sự huyện lại quyết định gọi nhập ngũ vào tháng 2 nên người được gọi nhập ngũ không biết.
Trường hợp người được gọi nhập ngũ đã nhận được giấy gọi nhập ngũ nhưng không đến đúng thời hạn và có giấy chứng nhận của Uỷ ban nhân dân xã, phường, thị trấn về lý do không đến đúng thời hạn, thì cũng không bị coi là không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ.
Không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện là trường hợp người có đủ điều kiện theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự phải có nghĩa vụ huấn luyện và đã có lệnh gọi tập trung huấn luyện nhưng không đến nơi tập trung huấn luyện hoặc có đến nhưng bỏ về nên không thực hiện được Chương trình huấn luyện.
Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì, Công dân nam giới, trước khi đến tuổi nhập ngũ và trước khi nhập ngũ, phải được huấn luyện theo chương trỡnh quõn sự phổ thụng, bao gồm giỏo dục chớnh trị, huấn luyện quõn sự, rốn luyện ý thức tổ chức, kỷ luật và rốn luyện thể lực.
Hành vi không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện không chỉ đối với người trước khi được gọi nhập ngũ mà còn đối với hạ sĩ quan và binh sỹ đã xuất ngũ thuộc ngạch dự bị.
Theo quy định của Luật nghĩa vụ quân sự thì,hạ sĩ quan, binh sĩ dự bị hạng một phải tham gia huấn luyện tổng số thời gian nhiều nhất là mười hai tháng. Số lần huấn luyện và thời gian huấn luyện của mỗi lần do Bộ trưởng Bộ quốc phũng quy định. Giữa các lần huấn luyện, Bộ trưởng Bộ quốc phũng được quyền gọi tập trung quân nhân dự bị để kiểm tra tỡnh trạng sẵn sàng chiến đấu, trong thời gian không quá 7 ngày. Việc gọi quân nhân dự bị tập trung để huấn luyện hoặc kiểm tra tỡnh trạng sẵn sàng chiến đấu do Bộ trưởng Bộ quốc phũng quyết định. Nếu quân nhân dự bị không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện, thì bị coi là không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện.
b. Hậu quả
Hậu quả của tội phạm này là những thiệt hại do hành vi không chấp hành đúng quy định của pháp luật về đăng ký nghĩa vụ quân sự, không chấp hành lệnh gọi nhập ngũ và không chấp hành lệnh gọi tập trung huấn luyện gây ra. Các thiệt hại này có thể là vật chất hoặc phi vật chất. Tuy nhiên, hậu quả không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này. Vì vậy, chỉ cần xác định hành vi phạm tội và các dấu hiệu khách quan khác chứ không cần xác định hậu quả của tội phạm, nếu có thiệt hại xảy ra thì đó chỉ là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài hành vi khách quan, đối với tội phạm này nhà làm luật không quy định thêm dấu hiệu khách quan nào khác là yếu tố định tội hoặc là yếu tố định khung hình phạt. Tuy nhiên, để xác định chính xác hành vi khách quan cũng như các yếu tố khác của tội phạm này, cần nghiên cứu kỹ Luật nghĩa vụ quân sự và các văn bản hướng dẫn của các cơ quan Nhà nước có thẩm quyền về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện. Các quy định này có ý nghĩa rất quan trọng trong việc xác định hành vi của một người đã vi phạm các quy định về đăng ký nghĩa vụ quân sự, gọi nhập ngũ và gọi tập trung huấn luyện hay chưa.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm
Người phạm tội trốn tránh nghĩa vụ quân sự thực hiện hành vi do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình là trốn tránh nghĩa vụ quân sự, gây ảnh hưởng đến kế hoạch tuyển quân, kế hoạch huấn luyện của cơ quan quân sự nhưng vẫn cố tình không thực hiện. Người phạm tội có thể thấy trước hậu quả của hành vi trốn tránh nghĩa vụ quân sự, nhưng chủ yếu là bỏ mặc cho hậu quả xẩy ra.
Người phạm tội có thể có nhiều động cơ khác nhau, tuỳ thuộc vào hoàn cảnh, điều kiện của xã hội và của gia đình người phạm tội. Ví dụ: Trong thời chiến, người phạm tội vì sợ chết, trong thời bình vì sợ gian khổ, có người vì sợ đi bộ đội người yêu sẽ đi lấy chồng, có người vì sợ gia đình khó khăn.v.v… Động cơ không phải là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, việc xác định động cơ có ý nghĩa trong việc quyết định hình phạt.
- Tranh chấp chia di sản thừa kế là quyền sử dụng đất tại thành phố Quảng Ngãi
- Trong vụ án hình sự, luật sư tham gia giai đoạn nào?
- Sở hữu nhà ở của người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài
- Công chức phường đưa người không thuộc diện được hỗ trợ vào danh sách được nhận tiền hỗ trợ COVID bị xử lý về tội gì?
- Quy định pháp luật về thời hiệu thừa kế