Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa bị can, bị cáo phạm tội gây rối trật tự công cộng
Điều 245. Tội gây rối trật tự công cộng
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ một triệu đồng đến mười triệu đồng, cải tạo không giam giữ đến hai năm hoặc phạt tù từ ba tháng đến hai năm. (Khoản 1 Điều 318 BLHS 2015 có mức phạt từ 5-50 triệu đồng).
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ hai năm đến bảy năm:
a) Có dùng vũ khí hoặc có hành vi phá phách;
b) Có tổ chức;
c) Gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng;
d) Xúi giục người khác gây rối;
đ) Hành hung người can thiệp bảo vệ trật tự công cộng;
e) Tái phạm nguy hiểm.
Định nghĩa: Gây rối trật tự công cộng là hành vi làm náo động trật tự ở nơi công cộng.
Tội gây rối trật tự công cộng là tội phạm đã được quy định từ rất sớm trong các Sắc luật của Chính phủ trước đây và được Bộ luật hình sự năm 1985 quy định tại Điều 198. Tuy nhiên, qua thực tiễn đấu tranh phòng chống loại tội phạm này trong nhiều năm, trong từng giai đoạn khác nhau nhà làm luật đã kịp thời sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với tình hình kinh tế xã hội.
So với Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985 thì Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định về tội phạm này có những sửa đổi, bổ sung như sau:
– Nếu khoản 1 Điều 198 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định “người nào gây rối trật tự nơi công cộng”, thì khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 quy định “người nào gây rối trật tựcông cộng gây hậu quả nghiêm trọng hoặc đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm”. Việc sửa đổi, bổ sung này đã làm cho phạm vi truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi gây rối trật tự công cộng giảm đi nhiều.
– Bổ sung một số tình tiết là yếu tố định khung hình phạt quy định tại khoản 2 của Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999, mà khoản 2 của Điều 198 chưa quy định như: có tổ chức; gây cản trở giao thông nghiêm trọng hoặc gây đình trệ hoạt động công cộng; tái phạm nguy hiểm. Sửa đổi tình tiết “lôi kéo, kích động người khác” thành tình tiết: “xúi dục người khác”.
Về hình phạt, khoản 1 Điều 197 Bộ luật hình sự năm 1985 có mức cao nhất của hình phạt cải tạo không giam giữ là một năm, còn khoản 1 Điều 245 Bộ luật hình sự năm 1999 là hai năm; mức thấp nhất của khung hình phạt quy định tại khoản 1 Điều 198 là một năm còn khoản 2 Điều 245 là hai năm.
CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM GÂY RỐI TRẬT TỰ CÔNG CỘNG
1. Các dấu hiệu thuộc về chủ thể của tội phạm gây rối trật tự công cộng
Chủ thể của tội phạm này không phải chủ thể đặc biệt, chỉ cần người có hành vi vi phạm quy định về vệ sinh an toàn thực phẩm đến một độ tuổi nhất định và có năng lực trách nhiệm hình sự đều có thể là chủ thể của tội phạm này.
Theo quy định tại Điều 12 Bộ luật hình sự 1999 và 2015 thì chỉ người đủ 16 tuổi trở lên mới là chủ thể của tội phạm này, vì tội phạm này không có trường hợp nào là tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Nếu hành vi gây rối trật tự công cộng chưa gây ra hậu quả nghiêm trọng thì người có hành vi chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự nếu người đó đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
2. Các dấu hiệu thuộc mặt khách thể của tội phạm gây rối trật tự công cộng
Tội gây rối trật tự công cộng là tội xâm phạm đến an toàn công cộng, đến các quy tắc, sinh hoạt, đi lại, làm việc, vui chơi, … ở nơi công cộng.
3. Các dấu hiệu thuộc về mặt khách quan của tội phạm gây rối trật tự công cộng
a. Hành vi khách quan
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối bằng nhiều phương thức khác nhau như: tập trung đông người ở nơi công cộng gây náo động làm mất trật tự công cộng; đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động ở nơi công cộng; đập phá các công trình ở nơi công cộng, đập phá các tài sản trong các, quán ăn, quán giải khái có đông người, v.v.
Khi xác định hành vi gây rối trật tự cần phải phân biệt với hành vi tuy có gây rối trật tự công cộng nhưng đã cấu thành một tội khác thì người có hành vi gây rối chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm tương ứng mà họ đã thực hiện, mà không bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng. Ví dụ: Hai tốp thanh niên đuổi đánh nhau trong đó có Trần Văn H; trong khi đuổi đánh nhau, hò hét gây náo động đường phố thì Trần Văn H đã dùng dao nhọn mang theo đâm chết Bùi Văn T là một trong số thanh niên tham gia đánh nhau. Mặc dù Trần Văn H có hành vi gây rối trật tự công cộng nhưng từ việc gây rối mà H đã thực hiện hành vi giết người và tội giết người là tội phạm nặng hơn tội gây rối trật tự công cộng nên H chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội giết người.
Nói chung, để có thể gây rối trật tự công cộng thì phải có nhiều người, nhưng không phải bao giờ trong vụ án gây rối trật tự công cộng cũng có người tham gia mà có thể chỉ do một người thực hiện. Ví dụ: Vũ Văn T là đối tượng đã có người tiền án, tiền sự. Ngày 7-11-2005, T cùng bạn gái vào rạp xem phim; trong lúc đang chiếu phim thì T lấy thuốc lá ra hút, mọi người xung quanh yêu cầu T tắt thuốc lá nhưng T không những không nghe mà còn dở thói côn đồ, chửi bới, lăng mạ mọi người xung quanh, gây mất trật tự trong rạp, buổi chiếu phim phải dừng lại để ổn định trật tự, đèn trong rạp bật sáng, mọi người nhận ra T là tên lưu manh đã có nhiều tiền án, tiền sự; anh Phạm Văn H là người cùng phố với T đã đến khuyên T không nên có thái độ càn quấy ở trong rạp, nhưng T không nghe mà còn chửi anh H rất thậm tệ, rồi túm cổ áo anh H định đánh thì những người làm nhiệm vụ bảo vệ trong rạp kịp thời tới can ngăn và đưa T ra khỏi rạp. Do hành vi gây mất trật tự của T nên buổi chiếu phim bị gián đoạn hơn 30 phút.
Thực tiễn xét xử cho thấy, đối với hành vi gây rối trật tự công cộng thường là hành vi khởi đầu cho những hành vi phạm tội khác kế tiếp như: giết người, cố ý gây thương tích, chống người thi hành công vụ, huỷ hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản… Tuy nhiên, cũng có trường hợp từ hành vi phạm tội khác mà dẫn đến hành vi gây rối trật tự công cộng như: tổ chức đua xe trái phép, đua xe trái phép, đánh bạc, vi phạm các quy định về điều khiển phương giao thông đường bộ… Những người bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội gây rỗi trong các trường hợp này là người có liên quan đến hành vi phạm tội khác nhưng vì không đủ dấu hiệu cấu thành tội phạm đó.
b. Hậu quả
Hậu quả của hành vi ây rối trật tự công cộng là thiệt hại vật chất và phi vật chất được xác định là nghiêm trọng cho xã hội.
Hậu quả vừa là dấu hiệu bắt buộc, vừa không phải là dấu hiệu bắt buộc của tội phạm này.
Là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội chưa bị xử phạt hành chính về hành vi gây rối trật tự công cộng, hoặc chưa bị kết án về tội này, hoặc tuy đã bị kết án về tội này nhưng đã được xoá án tích.
Không phải là dấu hiệu bắt buộc nếu người phạm tội đã bị xử phạt hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xoá án tích mà còn vi phạm.
Theo hướng dẫn của Toà án nhân dân tối cao thì coi là gây hậu quả nghiêm trọng do hành vi gây rối trật tự công cộng nếu thuộc một trong các trường hợp sau:
– Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
– Cản trở sự hoạt động bình thường của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân;
– Gây thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;
– Làm chết người hoặc gây thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ cho người khác với tỷ lệ thương tật từ 31% trở lên.
– Gây cho nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 31%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 41% trở lên;
– Gây cho người khác bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật từ 21% đến 30%, và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên;
– Gây cho nhiều người bị thương tích hoặc bị tổn hại sức khoẻ với tỷ lệ thương tật của mỗi người dưới 21%, nhưng tổng tỷ lệ thương tật của tất cả những người này từ 30% đến 40% và còn thiệt hại về tài sản có giá trị từ năm triệu đồng trở lên.
– Ngoài các hậu quả xảy ra về tính mạng, sức khoẻ và tài sản được hướng dẫn trên đây, thực tiễn cho thấy có thể còn có hậu quả phi vật chất như: có ảnh hưởng xấu đến việc thực hiện đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước, gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, ngoại giao, đến trật tự, an toàn xã hội… Trong các trường hợp này phải tuỳ vào từng trường hợp cụ thể để đánh giá mức độ của hậu quả do tội phạm gây ra có phải là nghiêm trọng hay không18.
Khi xác định hậu quả của hành vi phạm tội cần chú ý: Có thể trong vụ án gây rối trật tự công cộng thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ, tài sản đã là hậu quả của hành vi phạm tội khác và người phạm tội khác đó đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội phạm khác nhưng vẫn được tính là hậu quả nghiêm trọng của hành vi gây rối để truy cứu trách nhiệm hình sự đối với người có hành vi gây rối. Ví dụ: A, B, C và D vào quán của chị H uống bia hơi; trong khi uống bia A,B,C,D đã gây rối làm náo loạn quán bia, trong lúc gây rối, A đã lấy cốc và vỏ chai bia ném người khác làm hư hỏng tài sản của chị H trị giá 12 triệu đồng, còn C đã dùng dao đâm anh Q làm anh Q bị thương có tỷ lệ thương tật là 45%. Mặc dù trong vụ án này, A bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác và C bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội cố ý gây thương tích nhưng thiệt hại về sức khoẻ của anh Q và thiệt hại về tài sản của chị H đều được tính để xác định hậu quả nghiêm trọng về hành vi gây rối của B và D.
c. Các dấu hiệu khách quan khác
Ngoài hành vi, hậu quả do hành vi vi phạm gây ra, nhà làm luật không quy định dấu hiệu khách quan khác là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội phạm này. Tuy nhiên, khi xác định hành vi phạm tội gây rối cần nghiên cứu các quy định của Nhà nước về các quy tắc về trật tự ở nơi công cộng.
4. Các dấu hiệu thuộc về mặt chủ quan của tội phạm gây rối trật tự công cộng
Người phạm tội thực hiện hành vi gây rối trật tự công cộng là do cố ý.
18 Nghị quyết số 02/2003 NQ-HĐTP ngày 17-4-2003 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của Bộ luật hình sự.