Tội cố ý gây thương tích

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng hỗ trợ pháp lý miễn phí cho người nghèo

Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác là hành vi của một người cố ý làm cho người khác bị thương hoặc tổn hại đến sức khoẻ.

So với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985 quy định về tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 về cơ bản đã được cấu tạo lại, lấy tỷ lệ thương tật làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và xác định khung hình phạt. Ngoài ra, nhà làm luật còn quy định một số trường hợp phạm tội mà thực tiễn xét xử, Toà án nhân dân tối cao đã tổng kết hướng dẫn các Toà án áp dụng Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985. Các trường hợp phạm tội này được làm dấu hiệu bổ sung cho dấu hiệu về tỷ lệ thương tật, nếu như tỷ lệ thương tật của nạn nhân chưa tới mức để người phạm tội phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự mà thuộc một trong các trường hợp này thì người phạm tội vânx bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc bị áp dụng khung hình phạt nặng hơn.

CÁC DẤU HIỆU CƠ BẢN CỦA TỘI PHẠM

 1. Về phía người phạm tội

Người phạm tội phải có hành vi tác động đến thân thể của người khác làm cho người này bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ như: đâm, chém, đấm đá, đốt cháy, đầu độc v.v… Hành vi này về hình thức cũng giống hành vi của tội giết người, nhưng tính chất và mức độ nguy hiểm thấp hơn nên nó chỉ làm cho nạn nhân bị thương hoặc bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không làm cho nạn nhân bị chết.

 Hành vi của người phạm tội được thực hiện do cố ý, tức là nhận thức rõ hành vi của mình nhất định hoặc có thể gây ra thương tích hoặc tổn hại cho sức khoẻ của người khác; mong muốn hoặc có ý thức để mặc cho hậu quả đó xảy ra. So với tội giết người, thì sự cố ý trong trường hợp gây thương tích mức độ nguy hiểm có thấp hơn, vì người phạm tội chỉ mong muốn hoặc để mặc cho nạn nhân bị thương, bị tổn hại đến sức khoẻ chứ không mong muốn nạn nhân chết.

2. Về phía nạn nhân

Nạn nhân phải bị thương tích hoặc bị tổn thương đến sức khoẻ ở mức đáng kể. Nếu thương tích không đáng kể thì chưa phải là tội phạm. So với Điều 109 Bộ luật hình sự năm 1985, thì Điều 104 Bộ luật hình sự năm 1999 (Điều 134 BLHS 2015) lấy tỷ lệ thương tật của nạn nhân làm căn cứ để xác định trách nhiệm hình sự và định khung hình phạt đối với người phạm tội

Theo quy định tại khoản 1 Điều 104 Bộ luật hình sự 1999 (khoản 1 Điều 134 BLHS 2015), thì người bị thương tích hoặc bị tổn hại đến sức khỏe phải có tỷ lệ thương tật từ 11% trở lên thì người phạm tội mới bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Căn cứ để xác định tỉ lệ thương tật là kết luận của Hội đồng giám định pháp y, trong trường hợp ở nơi nào không tổ chức được Hội đồng giám định pháp y thì căn cứ vào Bảng tiêu chuẩn thương tật 4 hạng quy định tại Thông tư liên bộ 12/TTLB ngày 26-7-1995 của Bộ Y tế – Bộ lao động, thương binh và xã hội (Thông tư số 22/2019/TT-BYT quy định về giám định pháp y và giám định tâm thần).