Nhà thờ họ, từ đường bị chuyển nhượng, tặng cho, lại được  Uỷ ban nhân dân cấp sổ hồng  thì Tòa án giải quyết như thế nào?

tranh chấp nhà thờ họ, từ đường

Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự trong vụ án tranh chấp nhà thờ họ, từ đường.

I./ NỘI DUNG VỤ ÁN

Nguồn gốc thửa đất số 336, tờ bản đồ số 04 diện tích 381m tại khu phố 4, phường 3, thị xã Q là của cụ Trần Thị C và các con: ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị Minh X và bà Nguyễn Thị Minh H (chết năm 2012) khai hoang tạo lập, đã được đăng ký tại Sổ đăng ký ruộng đất năm 1987 của thị xã Q được thể hiện trên bản đồ năm 1987 lập theo Chỉ thị số 299/TTg.

Năm 1994, vợ, chồng ông Nguyễn T và bà Nguyễn Thị L chuyển vào miền Nam sinh sống. Ngày 19/4/1998, cụ Trần Thị C chết, không để lại di chúc, các con là bà X, bà H vẫn sinh sống trên thửa đất.

Thực hiện Nghị định 60/CP của Chính phủ: hộ bà Nguyễn Thị Minh H và chồng là ông Nguyễn Quang A đăng ký kê khai nên được cấp GCNQSĐ số Đ642983 ngày 16/8/2004 đối với thửa đất số 1236, tờ bản đồ số 04 với diện tích 204m. Năm 2012, bà H chết, ông A được cấp đổi GCNQSDĐ số BL 712833 ngày 17/10/2013 thành thửa đất số 39, tờ bản đồ số 11, diện tích 204m. Hộ ông Nguyễn Xuân T (con bà Nguyễn Thị Minh X) được cấp GCNQSDĐ số Đ642696, thửa đất số 1237, tờ bản đồ số 04, diện tích 111m, được cấp đổi ngày 17/10/2013 tại GCNQSDĐ số BL712883, thửa đất số 22, tờ bản đồ số 11, diện tích 106m.

Ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị L cho rằng việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Xuân T và hộ ông Nguyễn Quang A không đúng nguồn gốc nên khởi kiện yêu cầu Tòa án:  

– Hủy GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL 712883 do UBND thị xã Q cấp ngày 17/10/2013 cho hộ ông Nguyễn Quang T đối với thửa đất số 22, tờ bản đồ số 11 diện tích 106m2.

– Huỷ Quyết định số 80/QĐ-UB ngày 29/6/2004 của UBND thị xã Q về việc cấp GCNQSDĐ cho hộ ông Nguyễn Quang T.

– Huỷ GCNQSDĐ, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL 712833 do UBND thị xã Q cấp ngày 17/10/2013 cho hộ ông Nguyễn Quang A đối với thửa đất số 39, tờ bản đồ số 11 diện tích 204m.

– Huỷ một phần Quyết định số 120/QĐ-UB ngày 16/8/2004 của UBND thị xã Q về việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân, phần liên quan đến hộ ông Nguyễn Quang A.

II./ QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TOÀ ÁN

1. Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q quyết định: chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T, bà Nguyễn Thị L.

Kháng cáo: Ngày 14/10/2020, Toà án nhân dân tỉnh Q nhận được đơn kháng cáo của ông Nguyễn Quang A là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm sửa án, bác yêu cầu khởi kiện của ông T.

2. Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN đã quyết định: chấp nhận đơn kháng cáo của ông Nguyễn Quang A, sửa Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q theo hướng bác đơn khởi kiện của ông T và bà Nguyễn Thị L đối với yêu cầu hủy GCNQSDĐ số BL 712833 do UBND thị xã Q cấp ngày 17/10/2013 cho hộ ông Nguyễn Quang A đối với thửa đất số 39, tờ bản đồ số 11, diện tích 204m tại phường 1, thị xã Q, tỉnh Q. Hủy một phần Quyết định số 120/QĐ-UB ngày 16/8/2004 của UBND thị xã Q về việc cấp GCNQSDĐ cho hộ gia đình, cá nhân trong đó có hộ ông Nguyễn Quang A.

Tại phiên tòa phúc thẩm, Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN bác kháng cáo của ông A, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q nhưng không được Hội đồng xét xử phúc thẩm chấp nhận.

Ngày 14/5/2021, ông T, bà L có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm nêu trên.

Ngày 10/11/2021, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng có Thông báo đề nghị Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN.  

Ngày 09/12/2022, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao có Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 09/QĐ-VKS-HC đối với Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN, đề nghị Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm, hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q.

Ngày 26/6/2023, Tòa án nhân dân tối cao có Quyết định giám đốc thẩm số 32/2023/GĐT-HC chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 09/QĐ- VKS-HC của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q

III. QUYẾT ĐỊNH CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN TỐI CAO

Tòa án cấp phúc thẩm đánh giá chứng cứ không đúng, không khách quan dẫn đến việc giải quyết vụ án không đúng quy định pháp luật, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự, cụ thể:

Nguồn gốc thửa đất tranh chấp 381m thuộc thửa 336, tờ bản đồ số 4, thị trấn Q, huyện H, tỉnh B (nay là thửa đất số 22 diện tích 106m, thửa đất số 23 diện tích 114m và thửa đất số 39 diện tích 204m) là của cụ Trần Thị C (mẹ ông T, bà X, bà H). Năm 1994, cụ C chết không để lại di chúc. Ngày 08 tháng 6 năm 1998, ông T, bà X, bà H lập giấy ủy quyền với nội dung ủy quyền nhà đất do cụ C và 3 anh em gầy dựng để cho bà Nguyễn Thị Minh X, Nguyễn Thị Minh H quản lý thờ tự nhà thờ, không được chuyển nhượng, không được tặng cho. Tại hồ sơ đề nghị cấp GCNQSDĐ năm 2004 và hồ sơ đề nghị cấp đổi GCNQSDĐ năm 2013 do ông T (con bà X) kê khai nguồn gốc diện tích đất 106m là đất thừa kế của bà X, sử dụng từ năm 1975; ông A (chồng bà H) kê khai diện tích đất 205m là khai hoang, sử dụng từ năm 1979, là không đúng. Người bị kiện là Ủy ban nhân dân thị xã Q cũng có ý kiến xác định việc cấp các GCNQSDĐ cho hộ ông T, ông A là chưa đúng về nguồn gốc. Vì vậy, Tòa án nhân dân tỉnh Q đã xét xử sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông Nguyễn T là có căn cứ, đúng quy định pháp luật. Tuy nhiên, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định cho rằng việc xác định nguồn gốc đất là chưa chính xác nhưng sai sót này không làm thay đổi bản chất sự việc khi bà H là một trong những người thừa kế của cụ C, từ đó chấp nhận kháng cáo của ông A, sửa bản án sơ thẩm theo hướng không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của ông T, bà L là không đúng quy định pháp luật, vì di sản thừa kế của cụ C chưa chia, việc công nhận đất của bà C để lại cho ông A, ông T làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của những người được hưởng thừa kế của cụ C trong đó có ông T. Vì vậy, Quyết định giám đốc thẩm số 32/2023/GĐT-HC của Hội đồng thẩm phán Toà án nhân dân tối cao đã hủy Bản án hành chính phúc thẩm số 134/2021/HC-PT ngày 23/3/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại ĐN, giữ nguyên Bản án hành chính sơ thẩm số 17/2020/HC-ST ngày 30/9/2020 của Tòa án nhân dân tỉnh Q.