Tóm tắt nội dung vụ án:
Trần Văn Hậu và Nguyễn Thị Kiều Oanh sống chung với nhau như vợ chồng, cả hai thuê phòng ở trọ tại số 249 Phan Đình Phùng, phường Bắc Lý, thành phố Đồng Hới, tỉnh Quảng Bình. Ngày 29/01/2020 Trần Văn, Hậu mua của một người Lào có tên Chay Thong (không rõ tên thật, địa chỉ cụ thể) ở khu vực Ngã ba Khe Sanh, huyện Hướng Hóa, tỉnh Quảng Trị một số lượng ma túy dạng Hồng phiến và Ketamine với giá 150.000.000 đồng rồi đem về cất giấu ở trong tủ quần áo tại nhà trọ với mục đích sử dụng dần và bản lại cho ai có nhu cầu mua để kiếm lời. Việc Hậu mua ma túy rồi đưa về cất giấu trong phòng trọ Oanh hoàn toàn không biết.
Sáng ngày 05/02/2020 có người hỏi mua ma túy với giá 6.000.000₫, Hậu đồng ý và gọi điện cho Nguyễn Thị Kiều Oanh lấy ma túy giao cho người mua thì bị bắt quả tang với số lượng 30,42 gam ma túy bao gồm Methamphetamine và Ketamine. Ngoài ra còn thu giữ tại phòng trọ Hậu, Oanh đang ở thu giữ 636,094 gam ma túy tương tự.
Quá trình giải quyết vụ án:
– Bản án hình sự sơ thẩm số 183/2021/HS-ST ngày 13/4/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh Quảng Bình đã quyết định: Các bị cáo Trần Văn Hậu, Nguyễn Thị Kiều Oanh phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; các điểm s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52; Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Trần Văn Hậu 19 (mười chín) năm tù.
Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HSST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 Bản án là 21 (hai mươi mốt) năm tù, thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23/3/2020.
Áp dụng điểm p khoản 2 Điều 251; các điểm n, s, t khoản 1 và khoản 2 Điều 51; Điều 54 của Bộ luật hình sự 2015 xử phạt bị cáo Nguyễn Thị Kiểu Oanh 05 năm 06 tháng tù, thời hạn tù tính kể từ ngày bị bắt đi thi hành án nhưng được trừ thời gian tạm giữ, tạm giam trước từ ngày 05/02/2020 đến ngày 26/5/2020.
Miễn hình phạt bổ sung là phạt tiền đối với các bị cáo Trần Văn Hậu và Nguyễn Thị Kiều Oanh.
Ngoài ra, bản án sơ thẩm còn quyết định xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng cáo theo quy định của pháp luật.
Ngày 20/4/2021, Bị cáo Trần Văn Hậu gửi đơn kháng cáo cho rằng hình phạt tù là quá cao, nên xin giảm nhẹ hình phạt.
Ngày 10/5/2021, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng ban hành Quyết định kháng nghị số 13/QĐ-VC2 đề nghị tăng hình phạt tù đối với bị cáo Trần Văn Hậu từ 19 năm lên chung thân với lý do Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết giảm nhẹ “người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS là không đúng.
– Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 312/2021/HSPT ngày 14/7/2021 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng quyết định: Căn cứ điểm a khoản 1, khoản 2 Điều 355; Điều 356 Bộ luật Tố tụng hình sự.
Không chấp nhận kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt của bị cáo Trần Văn Hậu; chấp nhận Quyết định kháng nghị số 13/QĐ-VC2 ngày 10/5/2021 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng về việc tăng hình phạt đối với các bị cáo Trần Văn Hậu từ 19 năm tù lên chung thân.
Tuyên bố: Bị cáo Trần Văn Hậu phạm tội “Mua bán trái phép chất ma tuý”.
Áp dụng điểm h khoản 4 Điều 251; điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51; điểm h khoản 1 Điều 52 của Bộ luật hình sự 2015, xử phạt bị cáo Trần Văn Hậu tủ Chung thân.
Áp dụng Điều 56 của Bộ luật hình sự, tổng hợp với hình phạt 24 (hai mươi bốn) tháng tù tại Bản án hình sự sơ thẩm số 38/2020/HSST ngày 17/7/2020 của Tòa án nhân dân huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình, buộc bị cáo phải chấp hành hình phạt chung của 02 bản án là tù chung thân; thời hạn chấp hành hình phạt tính từ ngày bị cáo bị bắt tạm giữ, tạm giam là ngày 23/3/2020.
Những vấn đề rút kinh nghiệm:
Bị cáo Trần Văn Hậu phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” quy định điểm h khoản 4 Điều 251 Bộ luật Hình sự, có khung hình phạt tù 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Điều 251
“…b) Heroin, Cocaine, methamphetamine…có khối lượng 100 gam trở lên; h) Có 02 chất ma túy trở lên mà tổng khối lượng tương đương với khối lượng…quy định một trong các điểm từ điểm a đến điểm g…”.
Bị cáo phạm tội có số lượng ma túy gấp hơn 06 lần so với quy định; bị cáo có 04 tiền án, trong đó có lần bị xử lý về tội phạm ma túy, nhưng cấp sơ thẩm áp dụng tình tiết “ăn năn hối cải” là không đúng. Mặt khác, tình tiết “người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS mà Tòa án sơ thẩm áp dụng cũng không phù hợp; bởi lẽ, trong vụ án này ngoài bị cáo Hậu và bị cáo Oanh bị bắt quả tang ra không có bị cáo nào khác, tại hồ sơ không thể hiện sự “tích cực hợp tác” ngoài hành vi “thành khẩn khai báo” đã được áp dụng tại điểm s khoản 1; nên không đủ căn cứ là bị cáo có “tích cực hợp tác hay không” để được áp dụng tình tiết trên.
Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng 03 tình tiết giảm nhẹ là “thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải” và “người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” theo điểm s, t khoản 1 Điều 51 BLHS. Từ đó áp dụng Điều 54 BLHS xử phạt bị cáo dưới mức khởi điểm khung hình phạt là nhẹ và không đúng quy định pháp luật.