Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của bị hại trong các vụ án hình sự
NỘI DUNG VỤ ÁN
Ngày 27/3/2017, Chi nhánh Tập đoàn Công nghiệp Viễn thông V (gọi tắt là VT) tuyển dụng Lê D vào Tập đoàn làm cộng tác viên khoán việc với công việc là bán hàng trực tiếp của VT Thành phố H. Quá trình làm việc, do có nhiều sai phạm nghiêm trọng nên ngày 23/5/2018, VT đã chấm dứt hợp đồng với D. Sau khi nghỉ việc, D vẫn giữ lại và sử dụng các Phiếu yêu cầu cung cấp dịch vụ cố định, truyền hình, Phiếu thu của VT. Sau đó, D mạo danh là nhân viên của VT để ký kết hợp đồng và thu tiền cước phí của khách hàng sử dụng dịch vụ của VT nhưng không nộp lại cho VT mà chiếm đoạt số tiền này. Với thủ đoạn nêu trên, D đã chiếm đoạt tài sản của một số khách hàng trên địa bàn huyện Bình Chánh như sau:
Ngày 12/02/2019, tại địa chỉ B14A/13V, ấp K, xã B, huyện B, D thu số tiền 1.200.000 đồng của bà Nguyễn Thị N (có phiếu thu) nhưng D chỉ thanh toán lại cho VT số tiền 179.268 đồng, chiếm đoạt 1.020.732 đồng của bà N.
Ngày 22/02/2019, tại địa chỉ A4/45D, ấp K, xã A, huyện B, D thu số tiền 2.880.000 đồng của ông Tống Đình T (có phiếu thu), sau đó chiếm đoạt số tiền này của ông T.
Ngày 02/3/2019, tại địa chỉ B14A/11E/10C, ấpK, B, huyện B, D thu số tiền 1.440.000 đồng của ông Vương Quốc Đ (có phiếu thu), sau đó chiếm đoạt số tiền này của ông Đ.
Tiếp đó, Ngày 03/3/2019, tại địa chỉ B8A/27H, ấp K, xã B, huyện B, D thu số tiền 1.200.000 đồng của ông Phạm Tùng L (có phiếu thu) nhưng D chỉ thanh toán cho VT 58.065 đồng, chiếm đoạt của ông Linh số tiền 1.141.935 đồng. Đến ngày 12/3/2019, tại địa chỉ B12C/21K, ấp 2B, xã B, huyện B, D thu số tiền 1.440.000 đồng của bà Vũ Thị H (có phiếu thu) nhưng D chỉ thanh toán cho VT 150.000 đồng, chiếm đoạt của bà H số tiền 1.290.000 đồng.
Do không được thực hiện dịch vụ theo thỏa thuận đã ký kết nên bà N, ông T, ông Đ, ông L và bà H đã đến VT để phản ánh, khiếu nại hành vi của D.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
Từ tháng 02 đến tháng 3 năm 2019, bị cáo Lê D đã có hành vi gian dối tự nhận mình là nhân viên của VT đến nhà các bị hại tại địa bàn xã A, huyện B để ký hợp đồng và thu tiền cước phí sử dụng dịch vụ VT. Các bị hại tin tưởng bị cáo là nhân viên của VT nên đóng tiền cho bị cáo, cụ thể: Bị cáo chiếm đoạt của bà Vương Thị N số tiền 1.202.732 đồng; chiếm đoạt của ông Tống Đình T số tiền 2.880.000 đồng; chiếm đoạt của ông Vương Quốc Đ số tiền 1.440.000 đồng; chiếm đoạt của ông Phạm Tùng L số tiền 1.141.935 đồng; chiếm đoạt của bà Vũ Thị H số tiền 1.290.000 đồng. Tổng số tiền mà bị cáo chiếm đoạt là 7.772.667 đồng.
BẢN ÁN CỦA TAND HUYỆN BÌNH CHÁNH
Căn cứ Khoản 1 Điều 174; điểm b, s Khoản 1, Khoản 2 Điều 51 của Bộ luật Hình sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017).
Căn cứ Khoản 2 Điều 136, Điều 331, Điều 333 của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.
Căn cứ Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
Xử phạt bị cáo Lê D 01 (một) năm 03 (ba) tháng tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Thời hạn tù tính từ ngày 14/4/2021.
- Chém người gây thương tích 14% có bị bắt không ?
- Một số điều khoản đặc trưng của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
- Áp dụng pháp luật không đúng vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
- Cá độ qua mạng không trả, bị ép viết giấy vay nợ tại quận 7
- Tranh chấp sau ly hôn nhà đất được cho tặng trong thời kỳ hôn nhân