Nội dung vụ án và quá trình giải quyết
Xuất phát từ mâu thuẫn trước đó với nhóm Nguyễn Văn C, nên Phạm T đã hẹn và thách thức đánh nhau tại nhà của C. Vào khoảng 20 giờ 30 phút ngày 02/12/2020, nhóm của Phạm T gồm: T, Trương Đ, Lê G, Lê Phi C1, Trần H, Bùi H1 sử dụng hung khí dao, đao, gậy ba khúc điều khiển xe mô tô đến nhà C nẹt pô, hô hào để đánh nhau với nhóm C gây mất ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội tại địa phương. Tại nhà C, lúc này gồm có C, Võ Ngọc H2, Trần Q, Lê Thanh P, Đoàn Thanh K, Lê Văn S, Nguyễn Văn Đ1, Trần Quốc D chuẩn bị nhiều loại hung khí như phảng, tuýp sắt, vỏ chai bia để đánh nhau. Riêng bị cáo C đưa cho H2 sử dụng khẩu súng bắn đạn hoa cải, đưa cho Q sử dụng khẩu súng bắn đạn cao su. Khi nhóm của Phạm T cầm hung khí, la hét chạy đến trước cổng nhà của C, thì Q sử dụng súng bắn đạn cao su bắn lên trời, còn H2 sử dụng súng hoa cải chĩa súng ra ngoài đường bắn vào nhóm của T trúng vào vùng đầu, cổ và mặt của Lê Phi C1 gây thương tích, làm nhóm T hoảng sợ bỏ chạy. Nguyễn Văn C tiếp tục điều khiển xe ô tô rượt đuổi theo nhóm của T, khi thấy Lê G, Trương Đ và Bùi Hồ đang đứng tại vị trí sát vách tường của sân vận động thì C điều khiển xe ô tô lùi lại để lấy đà sau đó tiếp tục điều khiển cho xe lao tới tông thẳng vào chỗ G, Đ và Hồ đang đứng. G và Hồ nhảy sang một bên tránh được, còn Đ tránh né không kịp nên bị gương chiếu hậu bên phải của xe do C điều khiển đập trúng người, gây thương tích nhẹ. Sau khi tông thì C hạ cửa kính và nói “Hôm nay tao tông chết mẹ chúng mày luôn” rồi điều khiển xe bỏ đi. Sau đó C1 và Đ được đưa đi cấp cứu. Hậu quả Lê Phi C1 bị đa chấn thương với tỷ lệ tổn thương cơ thể là 19%. Đ bị thương nhẹ, không xác định tỷ lệ thương tích.
Bản án sơ thẩm số 14/2023/HSCTN-ST ngày 24/7/2023 của Tòa án nhân dân tỉnh B áp dụng:
Điểm n, p khoản 1 Điều 123 Bộ luật Hình sự; điểm b, s khoản 1, khoản 2 Điều 51; điểm a khoản 1 Điều 52; Điều 56, khoản 3 Điều 57 của Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Nguyễn Văn C xử phạt bị cáo 12 năm tù về tội “Giết người”…
– Điểm n Khoản 1 Điều 123; điểm b, s khoản 1 Điều 51; điểm b khoản 1 Điều 52; khoản 3 Điều 57; Điều 91; Điều 101 BLHS đối với bị cáo Võ Ngọc H2 xử phạt bị cáo 09 năm tù về tội “Giết người”.
Ngoài ra, bản án còn tuyên phạt đối với 06 bị cáo khác về tội “Giết người và 05 bị cáo khác về tội “Gây rối trật tự công cộng”.
Vấn đề cần rút kinh nghiệm
1. Hành vi của Nguyễn Văn C điều khiển xe ô tô lùi lại lấy đủ rồi tiếp tục điều khiển xe ô tô lao đến tông vào vị trí G, Đ và Hi đang đứng sát tường của sân vận động đã đủ yếu tố cấu thành tội “Giết người” với các tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là “Giết 02 người trở lên” và “Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người quy định tại các điểm a, 1 khoản 1 Điều 123 BLHS. Cáo trạng và Bản án sơ thẩm không áp dụng 02 tình tiết định khung nêu trên với bị cáo Nguyễn Văn C là thiếu sót.
2. Tại thời điểm thực hiện hành vi phạm tội, bị cáo Võ Ngọc H2 mới 17 tuổi 05 tháng 08 ngày. Bị cáo phạm tội thuộc trường hợp “phạm tội chưa đạt”, nên theo quy định tại khoản 3 Điều 102 BLHS (dẫn chiếu quy định tại khoản 1 Điều 101 BLHS) thì mức hình phạt cao nhất được áp dụng với bị cáo Võ Ngọc H2 trong vụ án này là 09 năm tù. Tại phiên toà sơ thẩm Kiểm sát viên đề nghị Hội đồng xét xử tuyên phạt bị cáo Võ Ngọc H2 từ 10 đến 11 năm tù là trái quy định tại khoản 3 Điều 102 BLHS. Bản án sơ thẩm áp dụng khoản 3 Điều 57 BLHS mà không áp dụng khoản 3 Điều 102 BLHS với bị cáo H2 là sai sót trong việc áp dụng pháp luật với bị cáo là người chưa đủ 18 tuổi.
Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can bị cáo trong vụ án hình sự
- Tội cản trở giao thông đường bộ
- Thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm
- “Tàng trữ sử dụng trái phép chất ma túy” hay ‘Tổ chức sử dụng chất ma túy’
- Cưỡng ép quan hệ tình dục, tuy nhiên bị hại rút đơn tố giác, cháu tôi có bị truy tố về tội cưỡng dâm không?
- Công chức phường đưa người không thuộc diện được hỗ trợ vào danh sách được nhận tiền hỗ trợ COVID bị xử lý về tội gì?