Chấm Dứt Hợp Đồng Sai Luật – Nhà Trường Phải Nhận Lại Nhân Sự.

Chấm Dứt Hợp Đồng Sai Luật – Nhà Trường Phải Nhận Lại Nhân Sự.

NỘI DUNG VỤ ÁN

Ngày 17/4/2009, bà Lê Thị P và Trường Đại học C ký Hợp đồng lao động số 39/2009/HĐLĐ-DCL với thời hạn 02 năm, kể từ ngày 16/4/2009 đến ngày 15/4/2011; chức danh chuyên môn là Trưởng phòng Kế hoạch – Tài chính. Khi hết hạn hợp đồng, bà P tiếp tục làm việc mà không ký Hợp đồng lao động (HĐLĐ) mới với Trường Đại học C.

Ngày 30/3/2012, Sở Tài chính tỉnh V ban hành Kết luận thanh tra số 294/KL.TT-STC đơn vị Trường Đại học C về công tác quản lý và quyết toán tài chính, trong đó có kết luận một số vi phạm trong công tác kế toán.

Ngày 03/5/2012, Trường Đại học C ban hành Quyết định số 174/QĐ-DCL đình chỉ chức vụ Trưởng phòng Kế hoạch Tài chính và Kế toán trưởng của bà P, bà P phải có trách nhiệm bàn giao và thực hiện công việc theo sự chỉ đạo, phân công của quyền Trưởng phòng mới.

Từ ngày 03/5/2012 đến ngày 22/02/2013, bà P là nhân viên của phòng Kế hoạch – Tài chính.

Ngày 22/02/2013, Trường Đại học C căn cứ vào kết luận của Hội đồng họp lương ngày 21/02/2013 về việc xét tái ký HĐLĐ với bà P để ban hành Quyết định số 55/QĐ-DCL về đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà P (Quyết định số 55/2013).

Bà P cho rằng việc Trường Đại học C đơn phương chấm dứt HĐLĐ là trái pháp luật nên khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên hủy Quyết định số 55/2013; buộc Trường Đại học C nhận bà P trở lại làm việc; bồi thường các khoản tiền do ban hành quyết định đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật (28.700.000 đồng tiền bồi thường do vi phạm thời hạn báo trước; 508.400.000 đồng tiền lương và phụ cấp lương trong những ngày bà P không được làm việc); truy nộp các khoản bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo hiểm thất nghiệp cho bà P từ ngày 01/3/2013 đến ngày tiếp nhận bà P trở lại làm việc theo mức đóng và tỷ lệ do pháp luật quy định.

 QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT CỦA TÒA ÁN

1. Bản án lao động sơ thẩm số 01/2015/LĐ-ST ngày 04/9/2015 của TAND huyện L, tỉnh V quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn bà Lê Thị P.

Hủy Quyết định số 55/2013; Buộc Trường Đại học C phải có nghĩa vụ tiếp nhận bà P trở lại làm việc ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Buộc Trường Đại học C phải có nghĩa vụ trả bà P khoản tiền lương và phụ cấp lương trong những ngày bà P không được làm việc từ tháng 3/2013 đến tháng 2/2014 là 100.800.000 đồng; cộng với 02 tháng tiền lương và phụ cấp là 16.800.000 đồng, cộng với 45 ngày vi phạm thời hạn báo trước là 9.828.000 đồng. Tổng cộng chung các khoản là 127.428.000 đồng.

Kể từ ngày bà P có đơn yêu cầu thi hành án mà Trường Đại học C chưa thi hành xong nghĩa vụ trả tiền theo bản án thì hàng tháng Trường Đại học C còn phải có nghĩa trả lãi cho bà P theo quy định tại khoản 2 Điều 305 của Bộ luật Dân sự.

Đình chỉ xét xử đối với việc bà P yêu cầu Nhà trường trả cho bà tiền phúc lợi, nghỉ mát; ngày lễ 20/11.

Ngày 17/9/2015,Trường Đại học C có đơn kháng cáo án sơ thẩm.

Ngày 21/9/2015, Viện trưởng VKSND huyện L có Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 294/QĐKNPT-LĐ đối với án sơ thẩm vì Tòa sơ thẩm không đưa cơ quan bảo hiểm xã hội thành phố V tham gia tố tụng; lấy mức lương 8.400.000 đồng/tháng để buộc Trường Đại học C bồi thường cho bà P là không đúng.

2. Bản án lao động phúc thẩm số 03/2017/LĐ-PT ngày 14/6/2017 của TAND tỉnh V quyết định:

Chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng VKSND huyện L.

Hủy toàn bộ bản án lao động sơ thẩm. Giao hồ sơ vụ án về cho TAND huyện L giải quyết theo thủ tục chung.

3. Bản án lao động sơ thẩm số 01/2018/LĐ-ST ngày 04/5/2018 của TAND huyện L, tỉnh V quyết định:

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P. hủy Quyết định số 55/2013, Buộc Trường Đại học C phải có nghĩa vụ tiếp nhận bà P trở lại làm việc ngay khi bản án có hiệu lực pháp luật.

Buộc Trường Đại học C phải có nghĩa vụ trả bà P khoản tiền lương và phụ cấp lương trong những ngày bà P không được làm việc từ tháng 3/2013 đến tháng 4/2018 là 504.400.000 đồng; cộng với 02 tháng tiền lương và phụ cấp là 16.400.000 đồng, cộng với 45 ngày vi phạm thời hạn báo trước là 12.300.000 đồng. Tổng cộng chung các khoản là 537.100.000 đồng.

Buộc Trường Đại học C phải nộp bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho bà P từ tháng 3/2013 tạm tính đến tháng 4/2018 với số tiền là 68.820.840 đồng.

Ngày 08/5/2018, Trưởng Đại học C có đơn kháng cáo đối với án sơ thẩm

4. Bản án lao động phúc thẩm số 02/2018/LĐ-PT ngày 21/9/2018 của TAND tỉnh V quyết định:

Chấp nhận một phần yêu cầu kháng cáo của Trường Đại học C.

Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà P; hủy Quyết định số 55/2013; buộc Trường Đại học C nhận bà P trở lại làm việc theo HDLD đã ký kết.

Buộc Trường Đại học C phải trả cho bà P các khoản tiền cụ thể như sau: tiền lương và các khoản hỗ trợ khác trong thời gian bà P không được làm việc tử tháng 3/2013 tỉnh đến hết tháng 4/2018 là 504.400.000 đồng; 02 tháng tiền lương và các khoản hỗ trợ khác; 16.400.000 đồng; tiền bồi thường vi phạm thời hạn báo trước 45 ngày 12.300.000 đồng. Trường Đại học C tiếp tục phải trả lương và các khoản phụ cấp cho bà P mỗi tháng 8.200.000 đồng kể từ ngày 01/5/2018 cho đến khi bà P được nhận trở lại làm việc theo HĐLĐ đã ký kết theo quy định của Bộ luật Lao động; đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho bà P trong thời gian không được làm việc từ tháng 3/2013 đến khi nhận bà trở lại làm việc theo quy định. Bảo hiểm xã hội huyện L có trách nhiệm truy thu các khoản tiền này.

Ngày 18/5/2020, Chánh án TAND cấp cao tại Thành phố H ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2020/LĐ-GĐT đối với Bản án lao động phúc thẩm số 02/2018/LĐ-PT ngày 21/9/2018 của TAND tỉnh V.

5. Quyết định giám đốc thẩm số 06/2020/LĐ-GĐT ngày 14/9/2020 của TAND cấp cao tại Thành phố H quyết định:

Chấp nhận kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2020/KN-LĐ ngày 18/5/2020 của Chánh án TAND cấp cao tại Thành phố H; hủy án phúc thẩm, sơ thẩm; giao hồ sơ vụ án cho TAND huyện L xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm.

6. Ngày 31/8/2023, Chánh án TAND tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 01/2023/KN-LĐ đối với Quyết định giám đốc thẩm số 06/2020/LĐ-GĐT ngày 14/9/2020 của TAND cấp cao tại Thành phố H

Ngày 17/7/2024, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm TAND tối cao quyết định chấp nhận kháng nghị của Chánh án TAND tối cao, hủy Quyết định giám đốc thẩm số 06/2020/LĐ-GĐT ngày 14/9/2020 của TAND cấp cao tại Thành phố H Bản án lao động phúc thẩm số 02/2018/LĐ-PT ngày 21/9/2018 của TAND tỉnh V; giao hồ sơ cho cho TAND tỉnh V xét xử phúc thẩm lại.

VẤN ĐỀ PHÁP LÝ

1. Về áp dụng pháp luật

Hiệu trưởng Trường Đại học C ban hành Quyết định chấm dứt HĐLĐ số 55/QĐ-DCL ngày 22/02/2013 đối với bà P, thời điểm này Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi bổ sung năm 2002, 2006, 2007 đang có hiệu lực thi hành. Do vậy, TAND huyện L và TAND tỉnh V áp dụng các quy định của Bộ luật Lao động năm 2012 để giải quyết vụ án là không đúng. TAND cấp cao tại Thành phố H xác định TAND huyện L, TAND tỉnh V căn cứ Bộ luật Lao động năm 2012 để giải quyết vụ án là không đúng nhưng lại không áp dụng các quy định của Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi năm 2002 để xem xét, đánh giá vụ án là chưa đầy đủ.

2. Về căn cứ chấm dứt HĐLĐ

– HĐLĐ số 39/2009/HĐLĐ-DCL ngày 17/4/2009 giữa bà P và Trưởng Đại học C theo quy định tại khoản 2 Điều 22 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002 được xác định là HĐLĐ không có thời hạn. Tại Điều 1 HĐLĐ ghi công việc phải làm của bà P là theo sự phân công của Ban Giám hiệu, không mô tả công việc cụ thể. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ Trưởng phòng Kế hoạch – Tài chính và Kế toán trưởng, bà P có một số sai phạm được nêu tại Kết luận thanh tra số 294/KLTTSTC của Sở Tài chính tỉnh V. Ngày 03/5/2012, Trường Đại học C ban hành Quyết định số 174/QĐ-DCL đình chỉ chức vụ Trưởng phòng Kế hoạch – Tài chính và Kế toán trưởng của bà P với lý do bà P có vi phạm trong công tác tài chính, kế toán.

– Từ ngày 03/5/2012 đến ngày 22/02/2013, bà P thực hiện nhiệm vụ mới với tư cách là nhân viên của Phỏng Kế hoạch – Tài chính. Ngày 22/02/2013, Trưởng Đại học C đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bả P (tại Quyết định số 55/2013) vi cho rằng bà P không làm theo sự chỉ đạo của quyền Trưởng phỏng mới, không chấp hành đúng thời gian làm việc, đi trễ về sớm nhưng Nhà trưởng không xuất trình được biên bản vi phạm, sổ chấm công, biên bản nhắc nhở vi phạm cũng như tải liệu, chủng cử chứng minh bà P không hoàn thành nhiệm vụ theo HĐLĐ, thỏa ước lao động tập thể. Bên cạnh đó, theo Thông báo kết quả giải quyết về tố giác, tin báo về tội phạm hoặc kiến nghị khởi tố số 34 ngày 10/10/2014 của Cơ quan Cảnh sát Điều tra Công an huyện L, tỉnh V thì chưa có đủ cơ sở chứng minh bả P có hành vi tham ô tài sản của Trường Đại học C.

Như vậy, Trường Đại học C ban hành Quyết định số 55/2013 đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà P là trái quy định tại Điều 38 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002.

3. Về trình tự, thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ

Trước khi ban hành Quyết định số 55/2013, Trường Đại học C không hợp với Ban chấp hành Công đoàn Nhà trường để trao đổi, nhất trí về việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ với bà P; không thực hiện nghĩa vụ báo trước ít nhất 45 ngày cho bà P là vi phạm khoản 2, khoản 3 Điều 38 Bộ luật Lao động năm 1994, sửa đổi, bổ sung năm 2002.

TAND cấp cao tại Thành phố H khi giải quyết vụ án theo thủ tục giám đốc thẩm không nhận định về căn cứ chấm dứt HĐLĐ; trình tự, thủ tục đơn phương chấm dứt HĐLĐ của Trường Đại học C đối với bà P có vi phạm quy định của pháp luật hay không nhưng lại tuyên hủy án sơ thẩm, phúc thẩm để xét xử sơ thẩm lại là không có căn cứ.

4. Về giải quyết hậu quả của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ trái quy định của pháp luật

Ngày 21/9/2018, TAND tỉnh V xét xử phúc thẩm vụ án lao động, tuyên xử buộc Trường Đại học C nhận bà P trở lại làm việc theo HĐLĐ đã ký kết. Tuy nhiên, sau đó bà P đã được giải quyết chế độ hưu trí từ ngày 01/12/2018 theo Quyết định số 52/QĐ-BHXH ngày 02/01/2019 của Bảo hiểm xã hội tỉnh V (bà P sinh ngày 07/11/1963) nên TAND cấp cao tại Thành phố H khi xét xử giám đốc thẩm vụ án không xem xét, đánh giá tình tiết này làm căn cứ khi giải quyết hậu quả của việc đơn phương chấm dứt HĐLĐ là thiếu sót.

Luật sư Tân BìnhVăn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong các vụ tranh chấp