NỘI DUNG VỤ ÁN:
Trịnh Văn T và anh Nguyễn Văn P có quan hệ quen biết nhau. Anh P là tài xế xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808, vận chuyển hàng hóa cho Công ty Cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam và thường thuê T chở hàng thay khi cần thiết. Ngày 11/4/2022, anh P trả tiền cho T và không thuê T chạy xe thay cho mình nữa. Quả trình chạy xe thuê, T biết khi chở hàng xong, anh P mang xe đến bến xe Cẩm M để gửi cho anh Chu Văn N là bảo vệ của bến xe, anh P luôn để chìa khóa xe ở trên xe và không khóa cửa xe. Lợi dụng việc này, T nảy sinh ý định chiếm đoạt chiếc xe ô tô tải trên.
Ngày 12/4/2022, Trịnh Văn T cầm theo can nhựa, dung tích 10 lít đến bến xe CM. Tại đây, T hút dầu Diesel từ xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-17650, đổ vào bình đầu của xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808. Sau đó, T nổ máy điều khiển xe ô tô tài biển kiểm soát 60C-44808 ra khỏi bến xe. Thấy T lái xe đi, anh Chu Văn Nhỏi “Nay anh chạy xe hả?” thì T trả lời “Ừ”. Do anh N tưởng T được anh Nguyễn Văn P thuê chạy xe nên để cho Tiến điều khiển xe ô tô ra khỏi bến xe. Sau đó, Trịnh Văn T điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808 chở Nguyễn Xuân T đi mua ma túy để sử dụng. Khoảng 23 giờ 40 phút cùng ngày, T điều khiển xe ô tô đến đoạn đường lô cao su thuộc ấp 2, xã Xuân Đ, huyện Cẩm M, tỉnh Đồng Nai thì bị anh Nguyễn Văn P và anh Chu Văn N bắt giữ, đưa đến Công an xã Thừa Đ, huyện Cẩm M. Tại Cơ quan điều tra, T đã khai nhận hành vi như trên.
Tại Kết luận định giá tài sản số 12/KL-HĐĐG ngày 15/4/2022, Hội đồng định giá trong tố tụng hình sự huyện Cẩm M, tỉnh Đồng Nai xác định giá trị xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808 là 775.903.000 đồng.
Tại Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HSST ngày 19/9/2022, Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm s khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự, xử phạt Trịnh Văn T 15 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Ngày 27/9/2022, bị cáo Trịnh Văn T kháng cáo kêu oan.
Tại Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2023/HS-PT ngày 12/01/2023, Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh hủy Bản án hình sự sơ thẩm số 114/2022/HSST ngày 19/9/2022 của Tòa án nhân dân tỉnh Đồng Nai để điều tra lại theo quy định pháp luật
Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2023/KN-HS ngày 16/8/2023, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao kháng nghị Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2023/HS-PT ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh. Đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao xét xử giám đốc thẩm hủy Bản án hình sự phúc thẩm nêu trên để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật.
Tại phiên tòa giám đốc thẩm, đại diện Viện kiểm sát nhân dân tối cao thống nhất với Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao.
NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Theo các tài liệu, chứng cứ có trong hồ sơ vụ án thể hiện: anh Nguyễn Văn P là tài xế xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808, vận chuyển hàng hóa cho Công ty Cổ phần chăn nuôi C.P Việt Nam và thường thuê T chở hàng khi cần thiết. Sau đó, anh Phước không thuê T chạy xe thay mình nữa. Quá trình chạy xe thuê, T biết khi chở hàng xong thì anh P mang xe ô tô đến bến xe Cẩm M thuộc thị trấn Long G, huyện Cẩm M, tỉnh Đồng Nai để gửi. Ngày 12/4/2022, T đến bến xe Cẩm M lấy xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808 điều khiển ra khỏi bến xe, thấy vậy, anh Chu Văn N là bảo vệ của bến xe tưởng T được anh P thuê chạy xe, nên hỏi “Nay anh chạy xe hả?” thì T trả lời “Ừ”. Như vậy, T đã có thủ đoạn gian dối ngay từ đầu, đưa ra thông tin không đúng sự thật để anh N cho T điều khiển xe ô tô ra khỏi bến xe, chiếm đoạt xe ô tô tại biển kiểm soát 60C-44808. Việc chiếm đoạt tài sản của T hoàn thành kế từ thời điểm T điều khiển xe ô tô ra khỏi bến xe.Do đó, Tòa án cấp sơ thẩm kết án Trịnh Văn T về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tải sản” theo quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự là có căn cứ pháp luật.
[2] Về các nhận định của Tòa án cấp phúc thẩmTại phiên tòa phúc thẩm, anh Chu Văn N thay đổi lời khai cho rằng Trịnh Văn T có nói về việc đi trả xe đẩy. Trên cơ sở lời khai của anh N, Tòa án cấp phúc thẩm nhận định quá trình điều tra và tại phiên tòa phúc thẩm, anh N xác nhận bị cáo có nói với anh N về việc lấy xe ô tô tải để đi trả xe đẩy, nhưng chưa được Tòa án cấp sơ thẩm cho đối chất giữa bị cáo và anh N để làm rõ anh N có kiểm tra có xe đẩy trên xe ô tô tải hay không, bến xe có camera an ninh hay không, việc T lấy xe ra khỏi bến xe có được ghi hình lại hay không, Cơ quan điều tra chưa làm rõ hành trình xe chạy, từ đó hủy bản án sơ thẩm để điều tra lại là chưa có căn cứ, bởi lẽ:
[2.1] Quá trình điều tra, Trịnh Văn T có 04 lời khai nhận: khi anh Chu Văn N hỏi nay chạy xe ả, thì T trả lời “anh có chạy xe, nhưng giờ anh lấy xe ô tô tải chạy vào ấp 3, Thừa Đức lấy 01 cái xe lôi 04 bánh xong mới chạy xe”… “việc tôi lấy trộm dầu và tự động lấy xe ô tô của chủ xe khi chưa được sự đồng ý là sai và vi phạm pháp luật”. Lời khai ngày 08/7/2022, T khai “đã sử dụng thủ đoạn gian dối để làm cho anh N, là người quản lý xe ô tô tải… tưởng bị can được thuê chạy xe nên đã tin tưởng và cho bị can chạy xe ra khỏi bến xe… Mục đích là để chiếm đoạt xe ô tô làm phương tiện đi mua ma túy, sau đó có thể tìm cách tiêu thụ hoặc bản chiếc xe trên, lấy tiền tiêu xải cá nhân”. [2.2] Quá trình điều tra, anh Chu Văn N có 02 lời khai thể hiện khi anh hỏi Trịnh Văn T “nay anh chạy xe hả, có lệnh chở hà”, thì T nói “Ừ”, lúc này anh N nghĩ là T được thuê để chạy chở heo. Sau đó, anh Ngọc điện thoại cho anh Nguyễn Văn P thì phát hiện T đã lửa dối để chiếm đoạt xe ô tô. [2.3] Tại phiên tòa sơ thẩm, Trịnh Văn T khai do T để quên trên xe ô tô tải của anh Nguyễn Văn P xe đẩy, T đã liên hệ với anh P cho T mượn xe ô tô tải để đi trả xe đẩy, nhưng anh P nói đợi anh P về rồi tính và đề nghị cho đối chất với anh P. Về nội dung này, anh P có lời khai thể hiện, trên đường chạy xe đi bắt heo thì nghe T nói là “anh có chiếc xe đẩy gửi trên xe, để đó cho anh”, nhưng do đang chạy xe nên anh P không để ý. Khoảng 22 giờ ngày 11/4/2022, anh P chạy xe tải về bãi đậu xe, đến khoảng 21 giờ 55 phút ngày 12/4/2022 thì nghe tin T lấy trộm xe tải, anh P và anh N cũng truy tìm và bắt quả tang T cùng một người nữa đang chạy xe ô tô tải biển kiểm soát 60C-44808 ở ấp 3, xã Thừa Đ. Do đó, việc bị cáo T yêu cầu được đối chất với anh Nguyễn Văn P là không cần thiết. [24] Căn cứ lời khai của bị cáo, lời khai của bị hại, lời khai của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và những tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án, thì việc thay đổi lời khai của bị cáo và bị hại không làm thay đổi bản chất vụ án. Hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản của bị cáo hoàn thành kể từ thời điểm bị cáo điều khiển xe ô tô tải ra khỏi bến xe. Tuy nhiên, tài sản do bị cáo chiếm đoạt đã được trả cho bị hại ngay sau đó, nên Tòa án cấp sơ thẩm xử phạt bị cáo Trịnh Văn T 15 năm tù về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” là nặng, cần thiết xét xử phúc thẩm lại theo hướng giảm nhẹ hình phạt cho bị cáo.QUYẾT ĐỊNH:
Căn cứ khoản 5 Điều 382; khoản 3 Điều 388; Điều 391 và Điều 394 Bộ luật Tố tụng hình sự.
1. Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 11/2023/KN-HS ngày 16/8/2023 của Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, hủy Bản án hình sự phúc thẩm số 30/2023/HS-PT ngày 12/01/2023 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh.
2. Chuyển hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân cấp cao tại Thành phố Hồ Chí Minh để xét xử phúc thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật./.
Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng – Bào chữa cho bị can bị cáo trong vụ án hình sự.
- Mâu thuẫn trong việc neo tàu dẫn đến việc đâm chém nhau tại Hải Dương
- Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tùy
- Tội tuyên truyền chống Nhà nước
- Cưỡng ép quan hệ tình dục, tuy nhiên bị hại rút đơn tố giác, cháu tôi có bị truy tố về tội cưỡng dâm không?
- Thành lập văn phòng đại diện công ty nước ngoài tại Việt Nam



