Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bào chữa cho bị can, bị cáo bị khởi tố, truy tố trong các vụ án hình sự
Nội dung vụ án hình sự về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
Thực hiện Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND ngày 25/6/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố T7 về một số chế độ, chính sách đặc thù phục vụ công tác phòng, chống dịch C, hỗ trợ người dân bị tác động bởi dịch Covid-19 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh. Ngày 08/7/2021, ông Nguyễn Đình T1 – Chủ tịch Ủy ban nhân dân phường P ban hành Quyết định số 128/QĐ-UBND ngày 08/7/2021 về việc thành lập Hội đồng thẩm định, xét duyệt hồ sơ hỗ trợ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19 (sau đây gọi tắt là Hội đồng thẩm định) nhằm thực hiện việc thẩm định, xét duyệt hồ sơ hỗ trợ người lao động trên địa bàn phường P.
Hội đồng thẩm định có chức năng xét duyệt hồ sơ người lao động không có giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19, quy trình xét duyệt được hướng dẫn tại Văn bản số 2209/UBND-KT ngày 01/7/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố T7 và Văn bản số 4412/UBND
LĐTBXH ngày 06/7/2021 của Ủy ban nhân dân thành phố T7 về việc triển khai chính sách hỗ trợ người dân gặp khó khăn do đại dịch Covid – 19 theo Nghị quyết số 09/2021/NQ-HĐND ngày 25/6/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố T7.
Về nhóm ngành nghề được duyệt hỗ trợ theo Nghị quyết 09/2021/NQ HĐND ngày 25/6/2021 của Ủy ban nhân dân Thành phố T7 và Văn bản số 2209/UBND-KT ngày 01/7/2021 của UBND Thành phố T7 và Văn bản số 4412/UBND- LĐTBXH ngày 06/7/2021 của UBND thành phố T7 gồm: Bán
hàng rong, buôn bán nhỏ lẻ trên đường phố; Thu gom rác, phế liệu, bốc vác, chuyển hàng bằng xe ba gác, xe thô sơ; Bán lẻ vé số lưu động, tự làm hoặc làm việc tại các hộ kinh doanh trong lĩnh vực ăn uống, lưu trú, du lịch, chăm sóc sức khỏe (bao gồm cả bảo vệ): Làm công việc thuộc các ngành nghề, lĩnh vực phải tạm dừng hoạt động theo chỉ đạo của UBND Thành phố tại Công văn số 1749/UBND-VX ngày 30/5/2021 (gồm trung tâm thương mại, siêu thị, điện máy; Trò chơi điện tử có thưởng và casino (trong khách sạn) trên địa bàn; Các hoạt động thẩm mỹ thực hiện tại các cơ sở: bệnh việc, phòng đa khoa, phòng khám chuyên khoa).
Về quy trình xét duyệt như sau: Người dân sẽ đăng ký trực tiếp gửi đến Ủy ban nhân dân phường P thông qua “Phiếu thông tin lao động tự do” hoặc gửi thông tin đăng ký đến trang Zalo của Ủy ban nhân dân phường P để được xét duyệt. Huỳnh Hồng S là thành viên Hội đồng thẩm định sẽ căn cứ vào thông tin người dân đăng ký để lên danh sách các trường hợp đủ điều kiện được hỗ trợ, trình bà Trần Thị Thanh T2 – Phó Chủ tịch UBND phường P duyệt danh sách. Sau đó, S sẽ gửi danh sách đến Phòng Lao động thương binh xã hội thành phố T để rà soát có trùng thông tin người dân đã đăng ký ở nơi khác hay không. Sau khi Phòng Lao động thương binh xã hội thành phố T rà soát xong sẽ chuyển danh sách kèm văn bản duyệt danh sách về cho S. S dùng danh sách này để làm thủ tục duyệt chi tiền, trình ông Nguyễn Đình T1 – Chủ tịch UBND phường P Quyết định về việc hỗ trợ cho người lao động không giao kết hợp đồng lao động (lao động tự do) bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Sau đó, S đến bộ phận Kế toán của Ủy ban nhân dân phường P để lấy tiền rồi đưa cho các Trưởng ban điều hành khu phố đem phát cho người dân.
Liên quan việc xét duyệt hỗ trợ trên, trong tháng 7 và tháng 8 năm 2021, Ủy ban nhân dân phường P đã xét duyệt, và chi tiền hỗ trợ cho 749 người dân, với số tiền 3.000.000 đồng/người; bao gồm 07 lần xét duyệt được thực hiện như sau:
– Lần 1: Xét duyệt cho 194 trường hợp đăng ký và sau khi Hội đồng họp xét thì thông qua 103 trường hợp. Số tiền chi hỗ trợ là 1.500.000 đồng/người.
– Lần 2: Xét duyệt cho 238 trường hợp đăng ký và sau khi Hội đồng họp xét thì thông qua 173 trường hợp. Do tình hình dịch Covid-19 phức tạp nên không họp trực tiếp mà họp thông qua nhóm chat Zalo trong đó có các thành viên trong Hội đồng. Quá trình họp thực tế ông S chỉ nêu các trường hợp không thuộc diện hỗ trợ để Hội đồng có ý kiến, chứ không nêu cụ thể từng trường hợp đăng ký. Số tiền chi hỗ trợ là 1.500.000 đồng/người.
– Lần 3: Xét duyệt cho 266 trường hợp đăng ký và sau khi Hội đồng họp xét thi thông qua 178 trường hợp. Do tình hình dịch Covid-19 phức tạp nên không họp trực tiếp mà họp thông qua nhóm chat Zalo trong đó có các thành viên trong Hội đồng. Quá trình họp thực tế ông S chỉ nêu các trường hợp không thuộc diện hỗ trợ để Hội đồng có ý kiến, chứ không nêu cụ thể từng trường hợp đăng ký. Số tiền chi hỗ trợ là 1.500.000 đồng/người
– Lần 4 và lần 5: Trước tình hình người dân phường P gặp rất nhiều khó khăn trong giai đoạn dịch Covid-19, đòi hỏi Ủy ban nhân dân phường phải thực hiện nhanh chóng các chính sách an sinh xã hội, các thành viên Hội đồng cũng được giao nhiều nhiệm vụ khác nhau nên không tập hợp được đủ để tổ chức họp, việc họp thông qua Z cũng không được sự quan tâm. Do không thể trì hoãn việc hỗ trợ người dân nên 02 lần này UBND phường dựa hoàn toàn vào việc ông S tham mưu, lên danh sách xét duyệt. Lần lượt là 139 trường hợp (lần 4) và 156 trường hợp (đợt 5) mà bị cáo S đã tham mưu cho bà T2 duyệt danh sách, trình ông T1 để duyệt chi tiền hỗ trợ. Số tiền chi hỗ trợ là 1.500.000 đồng/người.
– Lần 6 và lần 7: Chi thêm 1.500.000 đồng/người cho những người đã được duyệt trước đó nên không tiến hành họp Hội đồng xét duyệt.
Trong những lần xét duyệt nêu trên, Huỳnh Hồng S là thành viên Hội đồng thẩm định được giao việc lập hồ sơ, thủ tục xét duyệt hỗ trợ cho người lao động không có giao kết hợp đồng lao động bị ảnh hưởng bởi dịch Covid-19. Với quyền hạn và nhiệm vụ được giao, Huỳnh Hồng S đã lợi dụng sự sơ hở từ việc thiếu kiểm tra, giám sát của lãnh đạo Ủy ban nhân dân phường P, sơ hở trong việc xét duyệt của Hội đồng thẩm định như tổ chức họp không đủ thành phần, sơ sài hoặc không tổ chức họp, để đưa người không đủ điều kiện, không thuộc diện được hỗ trợ để nhận được tiền hỗ trợ. Quá trình điều tra đã xác định được Huỳnh Hồng S đã cố ý đưa 12 người không thuộc diện được hỗ trợ để được nhận hỗ trợ, cụ thể:
Ông Lê Văn N là Trưởng ban điều hành Khu phố 1, phường P và bà Nguyễn Thị Thu L là Trưởng ban điều hành Khu phố D, phường P, không thuộc diện được hỗ trợ nhưng Huỳnh Hồng S đã trực tiếp gặp riêng từng người nói sẽ đưa vào diện được nhận tiền hỗ trợ dành cho người lao động tự do để hỗ trợ tiền xăng, tiền điện thoại cho những người này đã bỏ ra để giúp người dân trong giai đoạn dịch Covid-19. S đề nghị những người này cung cấp thông tin nhân thân, rồi dùng thông tin này điền vào danh sách xét duyệt hỗ trợ và tự ý ghi ngành nghề cho phù hợp với ngành nghề thuộc diện hỗ trợ. Thông qua việc làm của S
thì ông N, bà L mỗi người đã nhận được 3.000.000 đồng tiền hỗ trợ, những người này không có đăng ký bằng “Phiếu thông tin lao động tự do” hoặc đăng ký qua Zalo.
Ông Đồng Văn G là Phó ban điều hành khu phố B, phường P không thuộc diện được hỗ trợ nhưng vẫn làm phiếu đăng ký nhận hỗ trợ, Huỳnh Hồng S biết rõ ông G không thuộc diện được hỗ trợ nhưng vì quen biết ông G, biết ông G đã bỏ công sức ra hỗ trợ người dân trong công tác phòng chống dịch nên đã tự ý cho qua và đưa vào danh sách được nhận hỗ trợ, ông G đã nhận được 3.000.000 đồng tiền hỗ trợ.
Ông Phan Văn L1 là em rể ông S làm nghề thợ cơ điện, S biết rõ không thuộc diện được hỗ trợ nhưng vì có quan hệ anh em nên cố ý cho qua, đưa vào danh sách được xét duyệt hỗ trợ và đã nhận được 3.000.000 đồng.
Lê Tấn P trước đây có làm việc ở Ủy ban nhân dân phường P nay làm việc ở trường Tiểu học N1, S biết không thuộc diện được hỗ trợ nên tự gạch nghề nghiệp của P và ghi vào nghề nghiệp bốc vác để đúng diện được nhận hỗ trợ, P đã nhận được 3.000.000 đồng tiền hỗ trợ.
Nguyễn Văn T3, Trần Văn R, San Cẩm T4, San Cẩm Q, Huỳnh Văn T5, Lê Minh T6 và Trần Thị Kim H trong phiếu đăng ký của những người này không ghi đủ thông tin để xét duyệt, S đã xác minh nghề nghiệp thực tế những người này không thuộc diện được hỗ trợ, mặc dù không quen biết nhưng S cho rằng những người làm nghề này cũng khó khăn nên tự ý đưa vào danh sách được duyệt hỗ trợ và đã nhận được 3.000.000 đồng/ người, cụ thể: Rô khai nghề nghiệp “lao động”, S xác minh và ghi nghề “phụ hồ”, T4 khai nghề nghiệp “công việc tự do”, S xác minh rồi ghi nghề “phụ hồ” Q khai nghề nghiệp “công việc tự do”, S xác minh và ghi nghề “thợ xây dựng”; T1 khai nghề nghiệp “công việc tự do” S xác minh và ghi nghề “phụ hồ”; T6 khai nghề nghiệp “bảo trì cây xanh” S gạch bỏ, ghi nghề “bốc vác”; H khai nghề “công nhân xí nghiệp”, S gạch bỏ ghi nghề “bán nước giải khát”.
Với 12 trường hợp Huỳnh Hồng S cố ý đưa vào danh sách để nhận hỗ trợ, đã gây thiệt hại cho Nhà nước 36.000.000 đồng. Bản thân Huỳnh Hồng S không vụ lợi hoặc nhận các lợi ích khác từ những người này.
Bản án hình sự về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”
Căn cứ vào khoản 1 Điều 356; điểm l khoản 1 Điều 52; điểm b, s, t, v khoản 1, khoản 2 Điều 51; Điều 38 và Điều 50; Điều 54 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017,
Xử phạt bị cáo Huỳnh Hồng S 03 (ba) tháng 10 (mười) ngày tù về tội “Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành công vụ”. Bị cáo được trừ đi thời hạn tạm giữ, tạm giam từ ngày 04/9/2021 đến ngày 14/12/2021. Bị cáo đã chấp hành xong hình phạt.
- Tranh chấp sau ly hôn nhà đất được cho tặng trong thời kỳ hôn nhân
- Áp dụng pháp luật không đúng vụ “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
- Tranh chấp hợp đồng tín dụng, nội dung bất lợi cho người vay
- Tội chống người thi hành công vụ
- Quy định pháp luật về công tác xét xử vụ án hình sự có bị hại là người chưa thành niên