NỘI DUNG VỤ ÁN
Ông Nguyễn Văn T (mất năm 1995) và bà Trần Thị H (mất năm 2003) có 08 người con, gồm: Nguyễn Thị A, Nguyễn Văn B, Nguyễn Văn C (mất 2020), Nguyễn Văn D, Nguyễn Văn E, Nguyễn Văn F (mất 2001), Nguyễn Văn G và Nguyễn Văn H (mất 2012).
Di sản của vợ chồng ông T và bà H để lại là thửa đất số 128, tờ bản đồ số 05, diện tích 2.050m² (đất ở tại khu dân cư), đã được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ ngày 10/10/1992 mang tên ông Nguyễn Văn T.
Ngày 15/4/2006, 07 anh chị em trong gia đình (không có bà Nguyễn Thị A) đã họp và thống nhất giao thửa đất 128 cho ông Nguyễn Văn F quản lý, sử dụng. Ngày 20/7/2006, hộ ông F được UBND huyện X cấp GCNQSDĐ diện tích 2.050m². Sau khi ông F mất (năm 2006), vợ ông là bà Phạm Thị M tiếp tục quản lý, sử dụng đất.
Năm 2022, bà Nguyễn Thị A khởi kiện yêu cầu chia di sản thừa kế đối với thửa đất 128, diện tích đo đạc thực tế 3.600m² và hủy GCNQSDĐ đã cấp cho hộ ông F. Bà A đề nghị được nhận phần đất bằng hiện vật để cùng các anh em khác làm nơi thờ cúng cha mẹ.
Bị đơn, bà Phạm Thị M, cho rằng: đất là di sản cha mẹ chồng để lại, nhưng anh em đã họp thống nhất giao toàn quyền sử dụng cho ông F. Trên cơ sở đó, UBND huyện X đã cấp GCNQSDĐ hợp pháp. Bà đồng ý thanh toán giá trị cho bà A nhưng không đồng ý chia cho những người đã từ bỏ quyền thừa kế trước đây.
QUÁ TRÌNH GIẢI QUYẾT
Bản án sơ thẩm
TAND tỉnh Y xét xử sơ thẩm ngày 25/6/2023, tuyên:
- Xác nhận toàn bộ 3.600m² đất tại thửa đất số 128, tờ bản đồ số 05 (GCNQSDĐ cấp ngày 20/7/2006 cho hộ ông Nguyễn Văn F) là di sản của ông T và bà H.
- Giao cho bà Phạm Thị M quyền sử dụng toàn bộ diện tích đất, đồng thời phải thanh toán cho các đồng thừa kế gồm bà A, ông B, ông D, ông E, ông G mỗi người 280 triệu đồng.
Kháng cáo
- Nguyên đơn bà A kháng cáo, yêu cầu nhận phần đất hiện vật để thờ cúng.
- Bị đơn bà M kháng cáo, đề nghị giữ nguyên GCNQSDĐ và không chia hiện vật.
Bản án phúc thẩm
TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm ngày 12/4/2024, tuyên:
- Chỉ công nhận 2.050m² (theo GCNQSDĐ năm 1992) là di sản.
- Phần đất dôi dư hơn 1.500m² được xác định do hộ bị đơn khai phá sau năm 2003, không phải di sản.
- Chia cho các đồng thừa kế một lô đất diện tích 950m² (trong đó có 200m² đất ở) để làm nơi thờ cúng.
- Giao bà M quản lý phần đất còn lại và sở hữu toàn bộ nhà cửa, công trình.
- Bà M có nghĩa vụ thanh toán phần giá trị chênh lệch cho các đồng thừa kế theo kỷ phần.
NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ
- Xác định di sản phải căn cứ GCNQSDĐ ban đầu. Diện tích dôi dư cần chứng minh nguồn gốc rõ ràng, không mặc nhiên coi là di sản.
- Biên bản họp gia đình chỉ có giá trị về quản lý, không phải là văn bản phân chia hoặc định đoạt tài sản, nhất là khi thiếu sự tham gia của một số đồng thừa kế.
- Công sức bảo quản, tôn tạo di sản của người trực tiếp sinh sống, quản lý cần được tính đến khi phân chia.
- Đáp ứng nguyện vọng hợp pháp của đồng thừa kế về việc nhận đất để làm nơi thờ cúng nếu điều kiện thực tế cho phép.
- Tòa sơ thẩm cần thu thập đầy đủ chứng cứ, tránh tình trạng xác định sai diện tích di sản, không tính công sức của bị đơn, dẫn đến bản án bị sửa ở phúc thẩm.
👉 Hãy liên hệ với chúng tôi để được tư vấn tốt nhất.
- Các loại giao dịch bất động sản dân sự phổ biến
- Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ
- Cưỡng ép quan hệ tình dục, tuy nhiên bị hại rút đơn tố giác, cháu tôi có bị truy tố về tội cưỡng dâm không?
- Vi phạm trong việc tính án phí, vụ án tranh chấp đòi lại tài sản.
- Đăng ký kiểu dáng công nghiệp