I. Nội dung và quá trình tố tụng của vụ án:
Thông qua giới thiệu của bà Nguyễn Thị Ngọc H, đầu tháng 10/2017, Nguyễn Thị V quen biết với bà Trần Thị Tuyết M, sau đó V vay mượn của bà M số tiền 50.000.000 đồng, nhưng chưa có tiền để trả.
Để có tiền tiêu xài cả nhân, Nguyễn Thị V thuê đối tượng có tên nickname zalo là “Lâm Tùng” làm giả 01 “Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất” (sau đây viết tắt là GCNQSDĐ) đứng tên Nguyễn Thị V đối với thửa đất số 25B1, tờ bản đồ số 60, phường K, quận C, thành phố Đ với giá 25.000.000 đồng. Sau khi có được GCNQSDĐ giả, Nguyễn Thị V phô-tô 01 bản đưa cho bà M xem và đặt vấn đề chuyển nhượng lô đất trên cho bà M với giá 3.000.000.000 đồng, đồng thời để cho bà M tin tưởng, V đã đưa bà M đến địa chỉ lô đất để xem. Nguyễn Thị V nói dối với bà M là GCNQSDĐ hiện đang thế chấp cho vợ chồng bà Phạm Thị H (chú, thím của V) để vay số tiền 600.000.000 đồng. Nguyễn Thị V hẹn bà M mang số tiền 600.000.000 đồng đến giao cho bà H để lấy lại GCNQSDĐ rồi tiến hành chuyển nhượng lô đất. Được sự hỗ trợ, giúp sức của bà H, bà M tin tưởng giao cho bà H số tiền 600.000.000 đồng vào ngày 21/10/2017. Sau đó, Nguyễn Thị V tiếp tục đến nhà bà M nhận thêm số tiền 600.000.000 đồng và viết giấy nhận cọc của bà M tổng cộng số tiền 1.250.000.000 đồng, bao gồm cả số tiền 50.000.000 đồng đã vay mượn trước đó.
Bản án hình sự sơ thẩm số 59/2020/HSST ngày 13/11/2020 của Tòa án nhân dân (TAND) thành phố Đ đã áp dụng điểm a khoản 4 Điều 174; điểm b khoản 3 Điều 341; điểm s khoản 1 Điều 51 và Điều 55 Bộ luật Hình sự (BLHS), xử phạt Nguyễn Thị V 13 năm tù về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và 03 năm tù về tội: “Làm giả con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức “. Buộc Nguyễn Thị V phải chấp hảnh hình phạt chung cho cả 02 tội là 16 năm tù. Ngoài ra, bản án còn quyết định về trách nhiệm dân sự, xử lý vật chứng, kiến nghị, án phí và quyền kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật.
Ngày 23/11/2020, bà Trần Thị Tuyết M kháng cáo đề nghị Tòa án cấp phúc thẩm xem xét trách nhiệm của vợ chồng bà Phạm Thị H.
Ngày 11/12/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng ban hành quyết định kháng nghị phúc thẩm, đề nghị TAND cấp cao tại Đà Nẵng xét xử phúc thẩm, huỷ Bản án hình sự sơ thẩm nêu trên của TAND thành phố Đ để điều tra lại do có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội.
Bản án hình sự phúc thẩm số 130/2021/HS-PT ngày 08/3/2021 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại Đà Nẵng.
II. Vấn đề cần rút kinh nghiệm:
Bản án hình sự sơ thẩm của TAND thành phố Đ đã xét xử Nguyễn Thị V về tội: “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định tại Điều 174 BLHS và tội: “Làm giả con dấu, tài liệu giả của cơ quan, tổ chức” quy định tại Điều 341 BLHS là đúng tội danh.
Tuy nhiên, trong vụ án này, bà Phạm Thị H là người biết rõ Nguyễn Thị V không mượn của vợ chồng bà H 600.000.000 đồng và vợ chồng bà H cũng không nhận thế chấp GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V. Thế nhưng, vào lúc 19h30′ ngày 21/10/2017, tại nhà của mình, bà H là người cầm 02 tài liệu gồm: 01 GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V và 01 Giấy mượn tiền ghi nội dung Nguyễn Thị V mượn của vợ chồng bà H 600.000.000 đồng trao đổi với bà M, sau đó giao 02 tài liệu này cho bà M để nhận 600.000.000 đồng. Việc Nguyễn Thị V nói với bà M là có nợ vợ chồng bà H 600.000.000 đồng và giao GCNQSDĐ cho vợ chồng bà H giữ phù hợp với hành vi của bà H trong việc trao đổi và giao GCNQSDĐ đứng tên Nguyễn Thị V cho bả M nên bà M tin tưởng giao 600.000.000 đồng cho bà H. Ngoài ra, tại phiên tòa sơ thẩm ngày 30/9/2020, Nguyễn Thị V và bà Phạm Thị H đều khai nhận, nếu không có sự giúp sức của bà H thì Nguyễn Thị V không chiếm đoạt được tiền của bà M. Như vậy, bà Phạm Thị H có dấu hiệu đồng phạm với Nguyễn Thị V trong việc lừa đảo chiếm đoạt tiền của bà M. TAND thành phố Đ đã trả hồ sơ vụ án để VKSND cùng cấp điều tra bổ sung làm rõ vai trò của bà H có hay không trong việc giúp sức cho Nguyễn Thị V thực hiện hành vi chiếm đoạt tiền của bà M. VKSND thành phố Đ không tiến hành điều tra bổ sung để làm rõ vụ án mà vẫn giữ nguyên quan điểm truy tổ là thiếu sót.
Thông qua công tác kiểm sát bản án sơ thẩm, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng nhận thấy Cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp sơ thẩm chưa điều tra làm rõ hành vi của bà Phạm Thị H, có dấu hiệu bỏ lọt người phạm tội nên đã kháng nghị phúc thẩm và TAND cấp cao tại Đà Nẵng đã chấp nhận kháng nghị như nêu ở phần trên.