Luật sư Tân Bình – Văn phòng luật sư Trần Toàn Thắng bảo vệ quyền và lợi ích của đương sự trong vụ án “Đòi lại quyền sử dụng đất cho ở nhờ” ở Huyện Phú Lộc, Thừa Thiên Huế
1. Tóm tắt nội dung vụ án
– Nguyên đơn cụ Lê Phiên, những người kể thừa quyền và nghĩa vụ của cụ Phiên ủy quyển cho bà Lê Thị Sòn trình bày: Năm 1936, cố Nguyễn Thị Tâm (mẹ của cụ Lê Phiên) có một thửa đất mang sổ ký hiệu A230, diện tích 01 sào 03 thước 09 tấc (tương đương 628m2), loại đất ở tọa lạc tại thôn Bình An 1, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế. Năm 1957 cố Tâm chết, để lại thửa đất trên cho cụ Phiên sử dụng trồng hoa màu. Năm 1982 ông Huỳnh Trọng Ngọc đến hỏi mượn cụ Phiên thửa đất này để làm nhà ở với cam kết sẽ trả lại khi cụ Phiên có nhu cầu sử dụng đất, việc cụ Phiên cho mượn đất chỉ bằng miệng, không viết giấy tờ. Từ năm 1987 đến năm 2009, cụ Phiên có nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất, nhưng chưa được chính quyền địa phương giải quyết. Năm 2004, ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc đã thu hồi 490,4m2 (một phần diện tích đất nêu trẽn) để mở đường ven biển Cảnh Dương, có bồi thường số tiền 17.654.000 đồng (do vợ chồng ông Ngọc khai nhận). Cụ phiên yêu cầu Tòa án buộc ông Ngọc trả lại 176m2 đất còn lại và số tiền 17.654.000 đồng.
Cụ Phiên chết ngày 10/10/2012, những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tò tụng của cụ Phiên tiếp tục yêu cầu Tòa án buộc vợ chồng ông Ngọc phải trả lại diện tích 113m2 đất (theo kết quả đo đạc định giá ngày 15/8/2014) cùng sổ tiền 17.654.000 đồng và tiền lãi tính từ tháng 5/2004 đến năm 2014 là 21.000.000 đồng.
– Bị đơn ông Huỳnh Trọng Ngọc trình bày : Thửa đất tranh chấp có nguồn gốc của cố Tằm (mẹ của cụ Phiên). Năm 1982, ông được cụ Phiên cho thửa đất này để làm nhà ở, việc cụ phiên cho đất chỉ nói miệng, không viết giấy tờ. Quá trình sử dụng đất, vợ chồng ông đã dựng lại ngôi nhả rường vào năm 1985, xây nhà kiên cố vào năm 2002 và đã đãng ký kê khai, nộp thuế đất từ năm 1997. Ông có hỗ trợ cho cụ Phiên 03 lần vói tổng số tiền 3.000.000 đồng và 01 chỉ vàng. Năm 2002, ông đề nghị cụ Phiên viết giấy cho đất thì cụ Phiên bảo ông đến gặp ông Le Phước Hùng (con trai cụ Phiên) để lập văn bản. Ngày 10/3/2002, ông Hùng ký văn bản với nội dung ông Hùng chuyển nhượng toàn bộ thửa đất trên cho vợ chông ông và ông cỏ đưa cho ông Hùng 500.000 đồng, có ông Hồ Xuân Tý chứng kiến. Năm 2004, Nhà nước thu hồi 490,4m2 đất để làm đường. Sau khi nhận tiền đền bù, ông đã chuyển đi nơi khác. Đối với diện tích đất còn lại, ông đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Phạm Văn Hương 45m2, chuyển nhượng cho ông Nguyễn Hữu Nghị 45m2, phần đất còn lại ông cho vợ chồng chị Huỳnh Thị Nhung (con gái ông) sử dụng. Ông không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
– Người có quyền lọi và nghĩa vụ liên quan :
- Bà Tống Thị Đào (vợ ông Ngọc) thống nhất với trình bày của ông Ngọc.
- Chị Huỳnh Thị Nhung, anh Trần Văn Viết trình bày: Năm 2007, anh chị kết hôn, được vợ chồng ông Ngọc (cha mẹ chị Nhung) cho 86m2 đất (đo thực tế 57m2) để làm nhà ở. Anh chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, vi hiện nay anh chị không có chỗ ở nào khác.
- Anh Phạm Văn Hương, chị Lê Thị Bé trình bày: Năm 2004, vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng cho anh chị 45m2 (đo thực tế 3Om2) với giá 8.000.000 đồng. Anh chị đã làm nhà tạm để ở và kinh doanh trên diện tích đất này. Anh chị không đồng ý với yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, đề nghị Tòa án xem xét giải quyết theo pháp luật.
- Ông Nguyễn Hữu Nghị, bà Tống Thị Huệ (Xí) trình bày: Năm 2008, vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng cho ông bà 45m2 đất (đo thực tế 26m2) với số tiền 23.000.000 đồng. Ông bà đã cho con trai là anh Nguyễn Hừu Tấn làm quán sửa xe đạp và chăn nuôi từ đó đến nay. Ông bà đề nghị Tòa án xem xét và giải quyết theo pháp luật.
2. Quá trình giải quyết của Tòa án
2.1. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 19/2012/DS-ST ngày 17/8/2012, Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định,- Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn; buộc vợ chồng ỏng Ngọc trả ỉại cho cụ Phiên so tiền đển bù 17.654.000 đồng và giá trị 125m2 đất ỉà 3 7.000.000 đồng, tổng cộng là 55.000.000 đồng; cụ Phiên phải thanh toán công sức bồi bo, cải tạo đất cho ông Ngọc là 31.000.000 đồng. Sau khi khấu trừ thì ông Ngọc còn phải thanh toán cho cụ phiên so tiền là 23.654.000 đồng.
2.2. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 37/2012/DS-PT ngày 28/12/2012, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: Hủy Bấn án dán sự sơ thám số Ỉ9/20Ỉ2/DS-ST ngày ỉ 7/8/2012 của Tòa án nhân dán huyện Phú Lộc; giao hồ sơ vụ cho Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huê xét xử sơ thâm lại.
2.3. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 46/2013/DS-ST ngày 24/9/2013, Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa kế quyên và nghĩa vụ tô tụng của nguyên đơn. Buộc VỌ‘ chồng ông Ngọc trả cho phía nguyên đơn so tién đên bù ỉ 7.654.000 đông và giá trị cùa Ỉ25m2 đất là 24.ỉ25.000 đồng, tổng cộng là 41.779.000 đồng; những người thừa kế quyền và nghĩa vụ tổ tụng của nguyên đơn phải thanh toán cho bị đơn tiền cải tạo, bồi bố đất là 11.500.000 đồng và 350.000 đồng (tiền do ông Hùng nhận của óng Ngọc). Tổng cộng là 11.850.000 đồng. Sau khi khấu trừ ông Ngọc, bà Đào phải trả cho những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tô tụng của cụ Phiên só tiên 29.929.000 đồng.
Tạm giao cho ông Ngọc, bà Đào quyên sử dụng 125m2 đât tọa lạc tại thôn Bình An 1, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, tinh Thừa Thiên Hue (có sơ đồ kèm theo).
2.4. Bản án dân sự phúc thẩm sổ 07/2014/DS-PT ngày 13/01/2014, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: Hủy bản án dán sự sơ tham so 46/20Ỉ3/DS-ST ngày 24/9/2013 của Tòa án nhân dán huyện Phú Lộc xét xừ sơ thấm lại.
2.5. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015, của Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của những người thừa ke quyển và nghĩa vụ tố tụng của nguyên đơn. Buộc bị đơn và những người liên quan tháo dỡ các công trình đe trả lại phần đất 113m2 cho nguyên đơn và buộc bị đơn trả cho nguyên đơn số tiền 33.145.385 đồng ¿=^ (bao gồm: Tiền đền bù đất bị đơn đã nhận 17.645.000 đồng và tiền lãi từ 2004 đến khi xét xử sơ thẩm là 15.491.000 đồng).
Ngày 12/11/2015, ông Ngọc, bà Đào và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.6. Tại Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 52/2017/KN-DS ngày 20/6/2017, Chánh án Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nằng kháng nghị đổi với Bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 của Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.
2.7. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 72/2017/DS-GĐT ngày 04/8/2017, ủy ban Thẩm phán Tòa án cấp cao tại Đà Nang quyết định: Chấp nhận kháng nghị của Chảnh án Tỏa án nhân dân cấp cao tại Đà Nằng, hủy toàn bộ bản án dân sự sơ thẩm số 95/2015/DS-ST ngày 22/4/2015 cùa Tòa án nhân dán huyện Phú Lộc, tình Thừa Thiên Huế; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thấm lại.
Tại Quyết định sổ 3191/QĐ-LHS ngày 17/10/2017, Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định lấy hồ sơ vụ án dân sự trên để giải quyết theo trình tự sơ thẩm.
2.8. Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế quyết định:
– Không châp nhận toàn bộ yêu cẩu khởi kiện của những người kế thừa quyên và nghĩa vụ tô tụng của nguyên đơn (cụ Lê Phiên) về việc yêu cầu ông Huỳnh Trọng Ngọc phải trả lại diện tích 1Ị3m2 đất; yêu cẩu ông Ngọc trả lại so tiền 17.654.000 đồng và lãi suất của sổ tiền này kể từ tháng 5/2004 đến năm 2014 với sô tiên là 21.000.000 đông; yêu cẩu ông Ngọc phải liên đới cùng anh Phạm Văn Hương, chị Lê Thị Bé; anh Trần Văn Viết, chị Huỳnh Thị Nhung; óng Nguyễn Hữu Nghị, bà Tống Thị Huệ và anh Nguyễn Hữu Tấn phải tháo dỡ bò các công trình trên diện tích ỉ 13m2 đất để trả lại diện tích đất này cho nhũng người kế thừa quyền và nghĩa vụ tó tụng cùa nguyên đơn.
– Tạm giao cho óng Ngọc, bà Đào được quyển sử dụng 113m2 đât tọa lạc tại thôn Bình An ỉ, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế (có sơ đồ kèm theo). Sau khi bản án có hiệu lực pháp luật ông Ngọc bà Đào có trách nhiệm đến cơ quan có thâm quyên đê kê khai, điêu chỉnh và đăng ký lại quyên sừ dụng đât theo quy định của pháp luật vê đât đai.
Sau khi xét xử sơ thẩm, ngày 31/5/2018, bà Lê Thị Sim (đại diện theo ủy quyền của những người kế thừa quyền và nghĩa vụ của nguyên đơn) có đơn kháng cáo toàn bộ bản án.
2.9. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 122/2012/DS-PT ngày 24/5/2018, Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang quyết định: Giữ nguyên bản án sơ thẩm số 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Sau khi xét xử phúc thẩm, bà Lê Thị Sim có đơn đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm.
2.10. Ngày 19/8/2019, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao ban hành Quyết định số 05/QĐKNGĐT-VKS-DS kháng nghị giám đổc thẩm đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 122/2018/DSPT ngày 22/8/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang: Đe nghị Hội đông Thám phản Tỏa án nhân dân tôi cao xét xử giám đôc tham hủy Bàn ản dân sự phúc tham nêu trên và hủy Bản án dân sự sơ thám so 04/2018/DSST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dán tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử sơ thâm lại theo đúng quy định của pháp luật.
2.11. Tại Quyết định giám đốc thẩm số 14/2020/DS-GĐT ngày 20/02/2020, Hội đồng Thẩm phán Tỏa án nhân dân tối cao đã quyết định chấp nhận kháng nghị của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao: Hủy Bản án dân sự phúc thấm so 122/2018/DS-PT ngàỵ 22/8/2018 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nang và hủy Bàn án dán sự sơ thẩm so 04/2018/DS-ST ngày 24/5/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế.
Giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh Thừa Thiên Huế xét xử ỉại theo thủ tục sơ thâm, đúng quy định của pháp luật.
3. Những vấn đề pháp lý của vụ án
Thứ nhất: Thửa đất so A230 diện tích 628 m2, tọa lạc tại thôn Bình An 1, xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế có nguồn gốc của cố Nguyền Thị Tâm (mẹ của cụ Lê Phiên) theo Bản trích lục địa bộ ngày 15/8/1936. Các đương sự đều xác nhận, cố Tâm chết (1957), cụ Phiên thừa hưởng, sử dụng diện tích đất nêu trên. Đối với cụ Phiên, chưa bao giờ từ bỏ quyền sử dụng thửa đất A230 do cố Tâm (mẹ cụ Phiên) để lại cho cụ Phiên, được chứng minh sự việc ông Ngọc đề nghị cụ Phiên viết giấy cho đất, nhưng cụ Phiên không đồng ý và cụ Phiên có nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất. Ngoài ra, cụ Phiên có Bản trích lục địa bộ thửa đất số A230 đứng tên cố Tâm, đây là loại giấy tờ được quy định tại điểm c khoản 1 Điều 50 Luật Đất đai năm 2003, do đó cụ Phiên có đủ điều kiện để đòi lại quyền sử dụng đất.
Cụ Phiên và bà Lê Thị Sim (đại diện những người kế thừa quyền và nghĩa vụ tố tụng của cụ Phiên) cho rằng: Năm 1982, cụ Phiên cho ông Huỳnh Trọng Ngọc mượn thửa đất A230 làm nhà ở, hai bên cam kết khi nào cụ Phiên lấy lại thì ông Ngọc sẽ trả, việc cho mượn không làm giấy tờ gì. Từ năm 1987 đến năm 2009 cụ Phiên viết nhiều đơn khiếu nại yêu cầu ông Ngọc trả đất, ông Ngọc không đồng ý trả lại đất, chính quyền xã Lộc Vĩnh, huyện Phú Lộc hòa giải không được. Năm 2004, ủy ban nhân dân huyện Phú Lộc mở đường ven biển Cảnh Dường thu hồi 490,4m2 đất một phần thửa A230, đền bù 17.654.000 đồng (ông Ngọc nhận số tiền này). Cụ Phiên chết năm 2012, bà Sim tiếp tục yêu cầu vợ chồng ông Ngọc phải trả lại diện tích còn lại của thửa đất A 230 là 113m2 và số tiền đền bù 490,4m2 đất là 17.654.000 đồng.
Thứ hai: ông Ngọc thừa nhận thửa đất đang tranh chấp là của cụ Phiên nhưng ông Ngọc cho rằng, cụ Phiên đã cho vợ chồng ông thửa đất này từ năm 1982 việc cho đất không làm giấy tờ. Khi nhà nước thu hồi 409,4m2 đất để mở đường, ông Ngọc có nhận số tiền đền bù 17.654.000 đồng, số đất còn lại ông Ngọc đã chuyển nhượng cho vợ chồng anh Phạm Văn Hương 45m2, vợ chồng ông Nguyễn Hữu Nghị 45m2, còn lại 86 m2 cho vợ chồng chị Huỳnh Thị Nhung là con gái Ngọc. Ông Ngọc khai trong quá trình sử dụng đất đã nhiều lần hỗ trợ cho cụ Phiên tiền và vàng, tổng cộng 3.000.000 đồng và 01 chỉ vàng, việc giao tiền vàng không viết giấy tờ biên nhận. Tuy nhiên ông Ngọc có nhiều lời khai không thống nhất về việc giao tiền, vàng cho cụ Phiên (có lúc khai giao 4.000.000 đồng, 1 chỉ vàng; có lúc khai giao 3.000.000 đồng, 1 chỉ vàng), mâu thuẫn về số lần giao (có lúc khai giao 2 lần; có lúc khai giao 3 lần), mâu thuẫn về thời điểm giao (đối với 1 chỉ vàng: Khai giao lân đâu tiên; có lúc khai giao năm 2000; có lúc khai giao năm 2001; có lúc khai giao năm 2004. Đối vớitiền: Có lúc khai giao thời điểm năm 1998-1999; có lúc khai giao năm 1986; có lúc khai giao vào các năm 1984, 1987, 2001; có lúc khai giao vào năm 1984, 1987; có lúc khai giao vào năm 1984, 1987, 2000; có lúc khai giao vào các nàm 1998, 2000).
Thứ ba: Trong quá trình sử dụng, ông Ngọc kê khai không trung thực về nguồn gốc đất, tại giấy kê khai nhà ở và đất ở ngày 02/01/1997, ông Ngọc kê khai đất là của ông bà để lại; tại tờ khai nguồn gốc đất thu hồi ngày 09/02/2004, ông Ngọc kê khai đất của cha có từ năm 1945 cho con Huỳnh Trọng Ngọc làm nhà năm 1983. Ông Ngọc không xuất trình được chứng cứ chứng minh việc cụ Phiên tặng cho vợ chồng ông Ngọc thửa đất trên, ngoài giấy chuyển nhượng đất và nhà ở lập ngày 10/3/2002 giữa ông Ngọc và ông Lê Phước Hùng (con trai cụ Phiên); giấy chuyển nhượng lập ngày 10/3/2002 không được cơ quan Nhà nước có thầm quyền xác nhận, đồng thời ông Hùng không phải là người có quyền quản lý, sử dụng hợp pháp thửa đất A 230 và cũng không được sự ủy quyền pháp lý của cụ Phiên trong việc định đoạt quyền sử dụng đất theo quy định của Luật Đất đai, do đó hợp đồng chuyển nhượng không có giá trị pháp lý. Mặt khác, theo quy định tại khoản 1,2, 5 Điều 50 Luật Đất đai 2003 và Điều 100 Luật Đất đai năm 2013, ông Ngọc không đủ điều kiện để được công nhận và cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
Ngoài ra tại biên bản xác minh ngày 02/10/2013, ủy ban nhân dân xã Lộc Vĩnh xác định vợ chồng ông Ngọc không phải là chủ sử dụng họp pháp thửa đất tranh chấp nên việc vợ chồng ông Ngọc ký giấy chuyển nhượng đất cho các hộ dang sử dụng (ông Hương: Năm 2004, ông Tấn: Năm 2006) là trái pháp luật; mặt khác khi vợ chồng ông Ngọc chuyển nhượng đất đang có tranh chấp nên ủy ban nhân dân xã không xác nhận việc chuyển nhượng đối với các hộ nêu trên.
Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm không xác minh, thu thập đơn khiếu nại của cụ Phiên, chỉ căn cứ một số lời khai của đương sự, để cho rằng ông Ngọc đưa tiền nhiều lần, được ông Hùng thừa nhận, ông Ngọc đã làm nhà trên đất nhưng cụ Phiên không phản dối, từ đó xác định cụ Phiên đã cho ông Ngọc đất là chưa đủ căn cứ, gây thiệt hại đến quyền lợi của nguyên đơn.
- Sản xuất, buôn bán hàng giả là phụ gia thực phẩm có bị bắt không ?
- Chủ tịch công ty lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bị truy tố
- Vai trò của luật sư trong việc trợ giúp khách hàng khi lấy lời khai, thu thập, kiểm tra, sử dụng, đánh giá chứng cứ
- Thẩm phán tuyên nhầm bản án
- Thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài